Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)
Version
I Sa-mu-ên 17

Đa-vít và Gô-li-át

17 Người Phi-li-tin tập họp quân sĩ để gây chiến. Họ họp lại Xô-cô trong xứ Giu-đa và đóng quân ở Ê-phe Đa-mim, nằm giữa Xô-cô và A-xê-ca.

Sau-lơ và quân Ít-ra-en tập họp tại thung lũng Ê-la và đóng quân ở đó, giàn trận chiến đấu chống quân Phi-li-tin. Quân Phi-li-tin kiểm soát một ngọn đồi còn quân Ít-ra-en kiểm soát ngọn đồi đối diện, ở giữa là thung lũng.

Quân Phi-li-tin có một dũng sĩ từ miền Gát tên Gô-li-át. Hắn ta cao chín bộ, một tấc. Hắn từ trại quân Phi-li-tin đi ra đầu đội mũ đồng và mặc áo giáp đồng nặng một trăm hai mươi lăm cân. Hắn cũng mang các miếng che bằng đồng quanh bắp chân và sau lưng mang một cây giáo bằng đồng. Cán gỗ của cây giáo lớn của hắn to như cây đòn của thợ dệt, và lưỡi giáo cân nặng khoảng mười lăm cân. Hắn có viên sĩ quan mang khiên cho hắn đi trước.

Gô-li-át đứng kêu to lên cùng các binh sĩ Ít-ra-en rằng, “Sao các ngươi giàn trận ra làm gì? Ta là người Phi-li-tin, các ngươi là tôi tớ Sau-lơ! Hãy chọn một người trong các ngươi ra chiến đấu với ta. Nếu hắn đánh và giết ta thì chúng ta sẽ làm tôi tớ các ngươi. Nhưng nếu ta giết hắn thì các ngươi sẽ làm tôi tớ chúng ta.”

10 Rồi hắn tiếp, “Hôm nay ta đứng thách thức đạo quân Ít-ra-en! Hãy đưa một người trong các ngươi ra đối địch với ta!”

11 Sau-lơ và quân Ít-ra-en nghe lời thách thức của người Phi-li-tin đều khiếp đảm.

Đa-vít ra tiền tuyến

12 Đa-vít là con Gie-xê, người Ép-ra-im, thuộc Bết-lê-hem xứ Giu-đa. Gie-xê có tám con trai. Trong thời Sau-lơ làm vua thì Gie-xê đã già rồi. 13 Ba con trai lớn của Gie-xê đã đi theo Sau-lơ ra mặt trận. Con trai cả là Ê-li-áp, con thứ nhì là A-bi-na-đáp, và con thứ ba là Sam-ma. 14 Đa-vít là con út. Ba con trai lớn của Gie-xê đi theo Sau-lơ, 15 nhưng Đa-vít đi tới lui từ Sau-lơ về Bết-lê-hem, nơi ông chăn chiên cho cha mình.

16 Suốt bốn mươi ngày cứ mỗi sáng mỗi chiều người Phi-li-tin đi ra đứng trước đạo quân Ít-ra-en.

17 Gie-xê bảo Đa-vít, “Con hãy mang nửa hộc gạo rang và mười ổ bánh mì đến cho các anh con trong trại quân. 18 Ngoài ra cũng mang theo mười miếng phó mát cho viên chỉ huy và cho các anh con. Xem thử các anh con ra sao rồi mang về cho cha bằng cớ gì để thấy chúng nó bình yên. 19 Sau-lơ, các anh con và quân ngũ Ít-ra-en ở trong thung lũng Ê-la, đang đánh nhau với quân Phi-li-tin.”

20 Sáng sớm hôm sau Đa-vít giao bầy chiên lại cho một người chăn khác rồi mang thức ăn và ra đi theo như Gie-xê dặn bảo. Khi Đa-vít đến trại thì đạo quân đang giàn thế trận, hò hét vang dậy. 21 Người Ít-ra-en và người Phi-li-tin giàn quân ra đối diện nhau sẵn sàng lâm chiến.

22 Đa-vít giao thức ăn cho một người giữ thực phẩm rồi chạy ra hàng quân để nói chuyện với các anh mình. 23 Trong khi đang nói chuyện với họ thì Gô-li-át, dũng sĩ người Phi-li-tin, gốc ở Gát, đi ra. Hắn la hét nghịch dân Ít-ra-en như thường lệ, Đa-vít nghe thấy.

24 Khi quân Ít-ra-en thấy Gô-li-át thì hoảng hốt bỏ chạy. 25 Họ bảo nhau, “Nhìn hắn kìa! Hắn cứ đi ra thách thức quân Ít-ra-en. Ai giết được hắn thì vua sẽ thưởng cho nhiều tiền lắm. Ai giết được hắn thì vua sẽ gả con gái và miễn thuế cho gia đình người trong cả Ít-ra-en.”

26 Đa-vít hỏi mấy người đứng gần đó, “Ai giết được người Phi-li-tin nầy và cất sự sỉ nhục ra khỏi Ít-ra-en thì được thưởng gì? Tên Phi-li-tin không chịu cắt dương bì nầy là ai mà phách tướng như vậy? Hắn tưởng hắn có thể bêu xấu đạo quân của Thượng Đế hằng sống à?”

27 Các người Ít-ra-en thuật lại cho Đa-vít phần thưởng của người giết được Gô-li-át. 28 Khi Ê-li-áp, anh cả Đa-vít nghe ông nói chuyện với các quân sĩ thì nổi giận với Đa-vít. Ông hỏi, “Mầy tới đây làm gì? Ai lo cho mấy con chiên của mầy trong sa mạc? Tao biết lòng mầy tự phụ và gian ác. Mầy chỉ muốn xuống đây để xem đánh nhau thôi.”

29 Đa-vít hỏi lại, “Tôi có làm gì đâu? Nói chuyện cũng không được sao?” 30 Rồi ông quay sang những người khác và lặp lại câu hỏi thì họ cũng trả lời y như trước.

31 Nhưng có người thuật lại cho Sau-lơ nghe lời Đa-vít nói cho nên Sau-lơ cho gọi Đa-vít đến. 32 Đa-vít trấn an Sau-lơ, “Xin đừng ai nản lòng. Tôi, kẻ tôi tớ vua, sẽ đi chiến đấu cùng tên Phi-li-tin nầy!”

33 Sau-lơ đáp, “Con không thể nào đi ra đánh tên Phi-li-tin được đâu. Con chỉ là đứa con nít còn Gô-li-át đã là chiến sĩ từ khi còn trẻ.”

34 Nhưng Đa-vít thưa cùng Sau-lơ, “Kẻ tôi tớ vua xưa nay chăn chiên cho cha tôi. Khi có sư tử hay gấu đến tha chiên đi khỏi bầy, 35 thì tôi liền rượt theo. Tôi đánh và giật con chiên ra khỏi miệng nó. Nếu nó nhào đến tấn công tôi thì tôi nắm bờm nó, đánh giết nó. 36 Tôi, kẻ tôi tớ vua đã giết sư tử lẫn gấu! Tên Phi-li-tin không chịu cắt dương bì nầy cũng như các con thú đó thôi, vì nó dám nhục mạ đạo quân của Thượng Đế hằng sống. 37 CHÚA đã cứu tôi khỏi sư tử và gấu thì Ngài là Đấng sẽ cứu tôi khỏi tên Phi-li-tin nầy.”

Sau-lơ bảo Đa-vít, “Thôi con đi, cầu CHÚA ở cùng con.” 38 Sau-lơ lấy áo mình mặc cho Đa-vít. Vua cũng lấy mũ sắt đội lên đầu Đa-vít và cho Đa-vít mặc áo giáp. 39 Đa-vít đeo gươm của Sau-lơ và tập đi thử nhưng không quen các thứ áo giáp Sau-lơ mặc cho mình.

Ông bảo Sau-lơ, “Tôi mặc thế nầy không được vì không quen.” Rồi Đa-vít cởi hết các thứ ấy ra. 40 Cậu chỉ cầm cây gậy trong tay và chọn năm viên sỏi láng nơi suối bỏ vào trong túi chăn chiên của mình và lấy cái ná xong đi ra đối đầu tên Phi-li-tin.

Đa-vít giết Gô-li-át

41 Ngay lúc đó tên Phi-li-tin cũng tiến tới giáp mặt Đa-vít. Tên lính vác khiên cho hắn đi trước hắn. 42 Khi Gô-li-át nhìn Đa-vít thấy ông chỉ là chú bé [a], khỏe mạnh [b] và đẹp trai thì khinh thường. 43 Hắn hỏi, “Bộ mầy cho tao là chó hay sao mà cầm gậy đến với tao?” Rồi nó nhân danh các thần mình mà chửi rủa Đa-vít. 44 Hắn bảo Đa-vít, “Đến đây. Tao sẽ ban thây mầy cho chim trời và muông thú ăn!”

45 Nhưng Đa-vít bảo hắn, “Ngươi đến với ta cầm gươm và hai cây giáo. Nhưng ta đến với ngươi nhân danh CHÚA Toàn Năng, Thượng Đế của đạo quân Ít-ra-en! Ngươi đã dám nhục mạ Ngài. 46 Hôm nay CHÚA sẽ trao ngươi vào tay ta, ta sẽ giết và cắt đầu ngươi. Bữa nay ta sẽ ban thây quân Phi-li-tin cho chim trời và muông thú ăn. Rồi cả thế giới sẽ biết rằng trong Ít-ra-en có một Thượng Đế! 47 Mọi người có mặt đây sẽ biết rằng CHÚA không cần gươm hay giáo để giải cứu con người. Trận mạc thuộc về Ngài, và Ngài sẽ trao ngươi vào tay ta.”

48 Trong khi Gô-li-át đang tiến tới để tấn công Đa-vít thì Đa-vít chạy nhanh tới để nghênh chiến với hắn.

49 Anh ta thò tay trong túi lấy ra một viên sỏi bỏ vào ná bắn. Viên đá đập trúng ngay và lọt sâu vào trán tên Phi-li-tin. Gô-li-át té úp mặt xuống đất.

50 Thế là Đa-vít đánh thắng tên Phi-li-tin bằng cái ná và hòn sỏi. Ông đánh giết hắn mà không có gươm trong tay. 51 Rồi Đa-vít chạy đến đứng bên thây của hắn. Ông rút gươm của Gô-li-át ra khỏi vỏ và cắt đầu hắn.

Khi quân Phi-li-tin thấy dũng sĩ mình đã chết liền quay lưng bỏ chạy tán loạn. 52 Các người Ít-ra-en và Giu-đa hò hét đuổi theo quân Phi-li-tin suốt cho đến cổng thành Gát và cổng Éc-rôn. Xác quân Phi-li-tin nằm la liệt trên đường Sa-a-ra-im cho đến Gát và Éc-rôn. 53 Sau khi rượt đuổi quân Phi-li-tin thì quân Ít-ra-en quay trở lại cướp phá trại quân của chúng.

54 Đa-vít mang đầu Gô-li-át về Giê-ru-sa-lem và cất vũ khí hắn trong lều mình.

Sau-lơ bắt đầu sợ Đa-vít

55 Khi Sau-lơ thấy Đa-vít đi ra đối đầu với Gô-li-át liền hỏi Áp-ne, tư lệnh quân đội mình rằng, “Áp-ne, cha của cậu đó là ai vậy?”

Áp-ne đáp, “Tâu vua, tôi không biết.”

56 Vua bảo, “Tìm xem thử cậu ta là con ai.”

57 Đa-vít trở về sau khi giết Gô-li-át thì Áp-ne đưa cậu ta đến Sau-lơ. Lúc đó Đa-vít vẫn đang xách đầu của Gô-li-át trong tay.

58 Sau-lơ hỏi cậu, “Nầy cậu, cậu là con ai?”

Đa-vít thưa, “Tôi là con của Gie-xê kẻ tôi tớ vua ở Bết-lê-hem.”

Rô-ma 15

15 Chúng ta, những người mạnh trong đức tin, phải giúp kẻ yếu, đừng chỉ biết lo làm vừa lòng mình. Mỗi người trong chúng ta hãy làm vừa lòng người láng giềng để làm ích cho họ và giúp họ mạnh thêm trong đức tin. Ngay cả Chúa Cứu Thế cũng không tìm cách làm vừa lòng mình. Thánh Kinh viết, “Khi họ sỉ nhục các ngươi, ta cũng đau lòng.” [a] Những gì đã được ghi trong quá khứ là để dạy dỗ chúng ta. Thánh Kinh giúp chúng ta kiên nhẫn và khích lệ để chúng ta nuôi hi vọng. Kiên nhẫn và khích lệ từ Thượng Đế mà đến. Tôi cầu xin Thượng Đế giúp anh chị em sống hòa thuận như ý muốn Chúa Cứu Thế Giê-xu. Lúc ấy anh chị em sẽ hiệp nhất với nhau và dâng vinh hiển cho Thượng Đế, Cha của Chúa Cứu Thế Giê-xu chúng ta. Chúa Cứu Thế đã tiếp nhận anh chị em, cho nên anh chị em hãy tiếp nhận lẫn nhau để mang vinh hiển về cho Thượng Đế. Tôi xin thưa rằng Chúa Cứu Thế đã trở thành tôi tớ cho người Do-thái để chứng tỏ rằng lời hứa của Thượng Đế với các tổ tiên của họ là chân thật. Như thế cũng để cho những người không phải Do-thái dâng vinh hiển cho Ngài vì lòng nhân từ Ngài đã tỏ ra cho họ.

Như Thánh Kinh viết,

“Tôi sẽ ca tụng Ngài
    giữa những người không phải Do-thái.
Tôi sẽ hát tôn vinh danh Ngài.” (A)

10 Thánh Kinh cũng nói,

“Những người không phải Do-thái ơi,
    hãy cùng với dân Ngài hớn hở lên đi.” (B)

11 Thánh Kinh cũng nói,

“Các ngươi là người không phải Do-thái,
    hãy ca tụng Thượng Đế.
Hỡi các dân hãy hát tôn vinh Ngài.” (C)

12 Nhà tiên tri Ê-sai cũng viết,

“Một vì vua mới sẽ xuất thân từ dòng họ Gie-xê [b]
Vua ấy sẽ trị vì những dân không phải Do-thái,
    và họ sẽ đặt hi vọng vào Ngài.” (D)

13 Tôi cầu xin Thượng Đế là Đấng ban hi vọng, sẽ khiến anh chị em đầy vui mừng và bình an, khi anh chị em đặt niềm tin nơi Ngài. Rồi anh chị em sẽ tràn đầy hi vọng trong Thánh Linh.

Phao-lô trình bày về công tác của mình

14 Thưa anh chị em, tôi tin rằng anh chị em đầy dẫy điều lành. Tôi biết anh chị em đầy đủ hiểu biết để có thể dạy dỗ lẫn nhau. 15 Nhưng tôi thấy cần viết thẳng thắn cho anh chị em về một vài vấn đề mà tôi muốn các anh chị em ghi nhớ. Tôi làm như thế vì Thượng Đế ban cho tôi ân tứ đặc biệt nầy: 16 Tôi được sai làm sứ giả của Chúa Cứu Thế Giê-xu cho những người không phải Do-thái. Tôi phục vụ Thượng Đế bằng cách rao Tin Mừng để người không phải Do-thái cũng trở thành một của lễ mà Thượng Đế chấp nhận—của lễ đã được thánh hóa bởi Thánh Linh.

17 Nên tôi rất hãnh diện trong Chúa Cứu Thế Giê-xu về điều tôi đã làm cho Thượng Đế. 18 Tôi sẽ không đề cập đến điều gì khác ngoài việc Chúa Cứu Thế dùng tôi để dẫn đưa nhiều người không phải Do-thái trở lại vâng phục Thượng Đế. Họ vâng phục Ngài vì những điều tôi giảng dạy và thực hành, 19 vì quyền năng trong các phép lạ và những điều kỳ diệu họ đã chứng kiến, qua quyền năng Thánh Linh của Thượng Đế. Từ Giê-ru-sa-lem tôi rao giảng Tin Mừng cho đến khắp miền Y-li-ri-cum, và làm xong phần công tác ấy của tôi. 20 Tôi muốn rao Tin Mừng ở những nơi chưa bao giờ được nghe về Chúa Cứu Thế, vì tôi không muốn dẫm chân lên công trình của người khác. 21 Theo như Thánh Kinh viết,

“Những người chưa được rao giảng về Ngài sẽ thấy,
    còn những người chưa được nghe về Ngài sẽ hiểu.” (E)

Phao-lô dự định thăm La-mã

22 Đó là lý do tại sao nhiều lần tôi muốn đến thăm anh chị em mà không được.

23 Nhưng nay công tác của tôi tại đây đã xong. Nhiều năm qua tôi rất muốn đến thăm anh chị em. 24 Tôi hi vọng ghé thăm anh chị em trên đường đi Tây-ban-nha. Sau khi thăm anh chị em một thời gian, tôi hi vọng anh chị em sẽ giúp tôi hoàn tất cuộc hành trình. 25 Bây giờ tôi lên Giê-ru-sa-lem để giúp đỡ dân Chúa ở đó. 26 Các tín hữu ở Ma-xê-đoan và miền Nam Hi-lạp cũng sốt sắng gởi tiền giúp các con cái Chúa đang túng thiếu ở Giê-ru-sa-lem. 27 Họ rất vui có dịp giúp đỡ vì họ cảm thấy chịu ơn các anh chị em ấy. Họ là những người không phải Do-thái đã được san sẻ ân phúc thiêng liêng của người Do-thái, cho nên họ thấy phải dùng của cải vật chất giúp lại người Do-thái. 28 Sau khi trao tiền giúp đỡ cho các tín hữu túng thiếu ở Giê-ru-sa-lem, tôi sẽ lên đường đi Tây-ban-nha và nhân tiện ghé qua thăm các anh chị em. 29 Tôi biết rằng khi đến thăm, tôi sẽ mang theo nhiều phước lành của Chúa Cứu Thế.

30 Thưa anh chị em, tôi xin anh chị em giúp tôi bằng cách cầu nguyện Thượng Đế cho công tác của tôi vì Chúa Giê-xu và vì tình yêu mà Thánh Linh đã ban cho chúng ta. 31 Xin cầu nguyện cho tôi thoát khỏi tay những kẻ không tin ở miền Giu-đia, và để cho món quà tương trợ mà tôi mang đến sẽ làm cho dân Chúa ở Giê-ru-sa-lem vui mừng. 32 Rồi sau đó, nếu Chúa muốn, tôi sẽ đến thăm anh chị em và chúng ta sẽ có dịp tiện nghỉ ngơi. 33 Nguyện Chúa của hòa bình ở cùng tất cả các anh chị em. A-men.

Ai Ca 2

Chúa tiêu diệt Giê-ru-sa-lem

Hãy xem Chúa đã làm nhục Giê-ru-sa-lem [a]
    trong cơn thịnh nộ Ngài.
Ngài đã ném sự cao trọng của Ít-ra-en
    từ trời xuống đất;
Ngài không nhớ lại đền thờ là bệ chân [b] Ngài nữa,
    trong ngày CHÚA nổi thịnh nộ.

Chúa đã tiêu diệt các nhà cửa của Gia-cốp,
    không thương tiếc;
trong cơn giận, Ngài giật sập những nơi vững chắc của Giu-đa [c].
Ngài ném quốc gia và các quan cai trị nó xuống đất để làm nhục nó.

Trong cơn giận Ngài đã phá hủy nhà cửa của Ít-ra-en,
    không chút thương tiếc.
Trong cơn thịnh nộ Ngài ném nước Giu-đa và các lãnh tụ nó xuống đất.

Ngài nhắm cung tên như kẻ thù,
    tay Ngài nghịch lại chúng ta.
Giống như kẻ thù,
    Ngài giết tất cả những trai tráng khoẻ mạnh;
Ngài trút cơn giận ra như lửa đổ trên các lều trại của Giê-ru-sa-lem.

Chúa giống như kẻ thù;
    Ngài nuốt sống Ít-ra-en.
Ngài tiêu diệt các cung điện nó
    và tiêu diệt các đồn lũy nó.
Ngài gây ra thêm tiếng kêu than trong đất Giu-đa.

Ngài chặt đền thờ [d] ra như mảnh vườn;
    Ngài dẹp phá nơi hội họp.
CHÚA đã làm cho Giê-ru-sa-lem
    quên những ngày lễ định sẵn và ngày Sa-bát.
Trong cơn thịnh nộ,
    Ngài gạt bỏ vua và thầy tế lễ.

Chúa cũng đã gạt bỏ bàn thờ
    và bỏ phế đền thờ Ngài.
Ngài đã giao vách của các cung điện trong Giê-ru-sa-lem cho kẻ thù.
Tiếng huyên náo trong đền thờ CHÚA
    nghe như tiếng liên hoan ăn mừng lễ lộc.

CHÚA dự định phá sập vách thành bao quanh Giê-ru-sa-lem.
Ngài đã đo vách
    và nhất quyết phá sập nó.
Ngài khiến các vách và hàng rào phòng thủ buồn thảm;
    tất cả đều ngã sập.

Các cổng thành Giê-ru-sa-lem sập xuống đất;
    Ngài đã tiêu diệt và bẻ gãy các thanh gài cổng nó.
Vua và các hoàng tử nó lưu vong giữa các dân.
    Lời giáo huấn của CHÚA đã ngưng,
và các tiên tri cũng không còn thấy dị tượng từ CHÚA nữa.

10 Các bô lão trong Giê-ru-sa-lem ngồi im lặng dưới đất.
    Họ phủ bụi trên đầu,
và mặc quần áo bằng vải sô
    để chứng tỏ lòng buồn thảm.
Các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem
    đi cúi gầm mặt xuống đất rầu rĩ.

11 Mắt tôi không còn rơi lụy nữa,
    tôi đã ngấy lắm rồi.
Tôi cảm thấy lòng trống rỗng,
    vì dân tôi đã bị tiêu diệt.
Các trẻ thơ và hài nhi ngất xỉu trong đường phố.

12 Chúng hỏi mẹ chúng,
    “Cơm gạo và rượu đâu hả mẹ?”
Chúng ngất xỉu như những binh sĩ bị thương
    trong các đường phố,
rồi chết trong tay mẹ mình.

13 Hỡi Giê-ru-sa-lem, ta sẽ nói gì về ngươi?
    Ta sẽ so sánh ngươi với cái gì?
Ngươi giống ai?
    Hỡi Giê-ru-sa-lem, làm sao ta an ủi ngươi được?
Sự điêu tàn ngươi thật sâu hơn biển cả.
    Không ai chữa lành ngươi nổi.

14 Các nhà tiên tri ngươi đã thấy dị tượng,
    nhưng là dị tượng giả, không có giá trị gì.
Các dị tượng đó không phơi bày tội lỗi ngươi, để giúp ngươi khỏi bị bắt.
Mà chỉ là những điều giả dối
    hướng dẫn ngươi đi lầm lạc.

15 Ai đi qua lại trên đường
    đều vỗ tay trêu chọc ngươi;
Chúng chế giễu Giê-ru-sa-lem và lắc đầu.
Chúng hỏi nhau,
“Đây có phải là nơi mà người ta gọi là thành phố đẹp nhất,
    nơi phúc hạnh nhất trên đất không?”

16 Tất cả các kẻ thù ngươi mở miệng chống nghịch ngươi.
    Chúng chế giễu và nghiến răng giận dữ.
Chúng bảo, “Chúng ta đã nuốt sống ngươi.
    Đây là ngày chúng ta mong đợi!
Rốt cuộc chúng ta thấy nó đã đến.”

17 CHÚA đã làm điều Ngài dự định;
    Ngài đã giữ lời hứa Ngài đã phán từ xưa.
Ngài đã hủy phá không thương tiếc,
    Ngài đã để kẻ thù cười nhạo ngươi.
Ngài thêm sức mạnh cho kẻ thù.

18 Dân chúng kêu la [e] cùng CHÚA.
    Hỡi vách thành Giê-ru-sa-lem,
Hãy để nước mắt ngươi chảy đầm đìa như sông cả ngày lẫn đêm.
Đừng ngưng chảy cũng đừng cho mắt ngươi nghỉ ngơi.

19 Hãy đứng dậy, kêu la giữa đêm,
    ngay cả lúc màn đêm buông xuống.
Hãy đổ lòng ra như nước mà khẩn cầu cùng CHÚA.
Hãy giơ tay lên van xin Ngài
    cứu mạng sống con cái ngươi.
Chúng đang ngất xỉu nơi mỗi góc phố vì đói.

20 Giê-ru-sa-lem nói, “Xin CHÚA hãy đoái nhìn,
    xem thử Ngài đã làm điều nầy cho ai.
Mẹ ăn thịt con cái mình,
    tức những đứa bé mà chính mình chăm sóc.
Các thầy tế lễ và nhà tiên tri bị giết
    trong đền thờ CHÚA.

21 Người trẻ và già đều nằm la liệt ngoài đường.
Các thanh niên thiếu nữ của tôi
    đã bị gươm giết.
Ngài giết chúng nó trong ngày CHÚA nổi giận;
    Ngài giết sạch không nương tay.

22 Ngài mang sự kinh hoàng
    vây tôi khắp bốn bên,
    giống như mời chúng đến dự tiệc.
Không ai thoát khỏi hay sống sót
    trong ngày CHÚA nổi thịnh nộ.
Kẻ thù tôi đã giết
    những kẻ tôi chăm sóc và nuôi nấng.”

Thánh Thi 33

Ca ngợi Chúa là Đấng sáng tạo và cứu rỗi

33 Hỡi những người làm điều ngay thẳng,
    hãy hát tôn vinh CHÚA;
    và những ai lương thiện hãy ca ngợi Ngài.
Hãy dùng đờn cầm mà ca ngợi CHÚA;
    hát khen Ngài bằng đờn sắt mười dây.
Hãy hát một bài ca mới [a] cho Ngài;
    hãy dạo đờn thật hay và thật vui.
Lời CHÚA rất chân thật,
    mọi việc Ngài làm đều thành tín.
Ngài chuộng sự công bình và ngay thẳng;
    tình yêu Ngài phủ đầy cả đất.
Trời đất được tạo nên do lời phán của Ngài.
Do hơi thở từ miệng Ngài,
    các ngôi sao xuất hiện.
Ngài gom nước lại thành một khối;
    và đặt nước biển trong kho chứa.
Khắp đất nên thờ phụng Ngài;
    muôn dân nên kính sợ Ngài.
Ngài phán, thì sự vật liền có.
    Ngài ra lệnh, sự vật liền xuất hiện [b].
10 CHÚA làm đảo lộn mưu kế các quốc gia;
    phá hỏng mọi chương trình của họ.
11 Nhưng những kế hoạch CHÚA còn muôn đời;
    các chương trình của Ngài tồn tại mãi mãi.
12 Phúc cho quốc gia nào chọn Thượng Đế làm CHÚA mình,
    hay dân tộc nào được Ngài nhận làm của riêng Ngài.
13 Từ trời cao CHÚA nhìn xuống thấy từng người.
14 Từ ngôi Ngài, Chúa quan sát những kẻ sống trên đất.
15 Ngài tạo dựng lòng họ,
    nên hiểu hết những hành vi của họ.
16 Không vua nào nhờ vào quân số đông mà được giải cứu.
    Không chiến sĩ nào thoát chết nhờ sức mạnh.
17 Ngựa không mang lại chiến thắng;
    sức mạnh chúng chẳng cứu được ai.
18 Nhưng CHÚA chăm sóc người kính sợ Ngài,
    và kẻ đặt hi vọng nơi tình yêu Ngài.
19 Ngài cứu họ thoát chết
    và giữ gìn sinh mạng họ trong cơn đói kém.
20 Vì thế chúng tôi đặt hi vọng nơi CHÚA.
Ngài là Đấng cứu giúp,
    là thuẫn bảo vệ chúng tôi.
21 Chúng tôi vui mừng trong Ngài,
    tin cậy nơi danh thánh Ngài.
22 Lạy CHÚA, xin hãy tỏ tình yêu Ngài đối với chúng tôi
    vì chúng tôi đặt hi vọng nơi Ngài.

Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)

Copyright © 2010 by World Bible Translation Center