Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)
Version
I Sa-mu-ên 4

Thế là tiếng đồn về Sa-mu-ên loan truyền khắp Ít-ra-en. Hê-li đã già lắm còn các con trai của ông vẫn tiếp tục làm những việc xấu xa trước mặt CHÚA [a].

Dân Phi-li-tin cướp Rương Giao Ước

Lúc đó dân Ít-ra-en ra tiến đánh dân Phi-li-tin. Quân Ít-ra-en đóng trại ở Ê-bên-ê-xe, còn quân Phi-li-tin đóng quân ở A-phéc. Quân Phi-li-tin kéo ra đánh nhau với quân Ít-ra-en.

Khi cuộc chiến mở rộng, quân Phi-li-tin đánh bại quân Ít-ra-en, giết khoảng bốn ngàn chiến sĩ ngay mặt trận. Khi một số quân Ít-ra-en trở về trại, các bô lão hỏi, “Tại sao CHÚA để bọn Phi-li-tin đánh thắng chúng ta? Hãy mang Rương Giao Ước từ Si-lô đến đây và mang Rương ra mặt trận với chúng ta. Thượng Đế sẽ giải cứu chúng ta khỏi tay kẻ thù.”

Vậy họ sai người đến Si-lô mang Rương Giao Ước với CHÚA Toàn Năng ngự giữa hai con thú có cánh bằng vàng. Hóp-ni và Phi-nê-a, hai con trai Hê-li cũng có mặt ở đó với Rương.

Khi Rương Giao Ước của CHÚA vào trại quân, toàn dân Ít-ra-en la lớn vì vui mừng đến nỗi rung chuyển đất. Khi quân Phi-li-tin nghe tiếng reo hò của người Ít-ra-en liền hỏi nhau, “Tiếng ồn ào huyên náo trong trại quân Hê-bơ-rơ [b] là gì vậy?”

Rồi họ khám phá ra rằng Rương Giao Ước của CHÚA đã vào trong trại quân Hê-bơ-rơ. Họ vô cùng hoảng sợ bảo nhau, “Các thần đã đến trong trại quân Hê-bơ-rơ! Khốn cho chúng ta rồi! Trước đây chưa bao giờ có chuyện nầy. Chúng ta nguy rồi! Ai có thể giải cứu chúng ta khỏi các thần hùng mạnh đó? Chính các thần này đã làm hại dân Ai-cập bằng đủ thứ thảm hoạ trong sa mạc. Hỡi quân Phi-li-tin, hãy can đảm lên! Hãy anh dũng chiến đấu! Trước kia chúng là nô lệ cho các ngươi. Hãy anh dũng chiến đấu nếu không chúng ta sẽ làm nô lệ cho chúng nó.”

10 Vậy quân Phi-li-tin chiến đấu hăng say và đánh bại quân Ít-ra-en. Mỗi người Ít-ra-en đều chạy trốn về nhà mình. Đó là một thảm bại lớn cho Ít-ra-en vì ba mươi ngàn chiến sĩ Ít-ra-en bị giết. 11 Rương Giao Ước của Thượng Đế bị quân Phi-li-tin cướp. Hóp-ni và Phi-nê-a, hai con Hê-li, cũng bị giết.

12 Ngày hôm đó có một người từ chi tộc Bên-gia-min chạy từ mặt trận về. Người xé áo quần và phủ bụi trên đầu để tỏ nỗi buồn thảm. 13 Khi đến Si-lô thì anh ta rất ngạc nhiên khi thấy Hê-li đang ngồi bên đường. Ông đang ngồi trên ghế trông ngóng vì rất lo lắng cho Rương Giao Ước của Thượng Đế. Khi người Bên-gia-min vào Si-lô, anh ta liền báo tin chẳng lành. Rồi toàn dân trong thành òa khóc thảm thiết. 14 Hê-li nghe tiếng khóc liền hỏi, “Việc gì mà ồn ào thế?” Người Bên-gia-min chạy đến thuật lại cho Hê-li nghe mọi việc. 15 Lúc đó Hê-li đã chín mươi tám tuổi và mù loà.

16 Người Bên-gia-min thuật, “Tôi từ mặt trận về. Tôi chạy suốt ngày nay.”

Hê-li hỏi, “Chuyện gì vậy con?”

17 Người Bên-gia-min đáp, “Dân Ít-ra-en chạy trốn trước mặt quân Phi-li-tin, và đạo quân Ít-ra-en bị mất nhiều chiến sĩ lắm. Hai con trai ông đều chết, còn quân Phi-li-tin đã cướp Rương Giao Ước của Thượng Đế.”

18 Khi anh ta nói đến Rương Giao Ước của Thượng Đế, thì Hê-li ngã ngửa ra trên ghế, té xuống gãy cổ chết vì ông vừa già vừa mập. Ông lãnh đạo dân Ít-ra-en trong bốn mươi năm [c].

Vinh hiển không còn

19 Con dâu của Hê-li tức vợ của Phi-nê-a đang mang thai sắp sanh. Khi cô nghe Rương Giao Ước của Thượng Đế đã bị cướp mất và Hê-li, cha chồng, cùng Phi-nê-a chồng mình đã chết thì nàng khòm xuống và sinh con vì nàng đau bụng đẻ quá sức. Đứa bé rất khó sinh. 20 Khi nàng đang hấp hối thì các người đàn bà giúp nàng sinh trấn an, “Đừng lo, chị sinh con trai!”

Nhưng nàng chẳng trả lời hay để ý. 21 Nàng đặt tên cho đứa bé là Y-ca-bốt [d] vì nàng bảo, “Vinh hiển của Ít-ra-en đã mất rồi [e].” Nàng nói vậy vì Rương Giao Ước của Thượng Đế đã bị cướp mất và cha chồng cùng chồng nàng đã chết. 22 Nàng bảo, “Vinh quang của Ít-ra-en không còn vì Rương Giao Ước của Thượng Đế đã bị cướp mất rồi.”

Rô-ma 4

Dùng Áp-ra-ham làm dẫn chứng

Chúng ta có thể nói Áp-ra-ham, tổ tiên của dân tộc ta, đã học được gì về đức tin? Nếu Áp-ra-ham được hòa thuận với Thượng Đế nhờ những điều ông làm thì ông sẽ có lý do chính đáng để khoe. Nhưng Áp-ra-ham không thể tự khoe trước Thượng Đế. Vì Thánh Kinh viết, “Áp-ra-ham đặt niềm tin nơi Thượng Đế, Ngài chấp nhận niềm tin của ông và niềm tin ấy khiến ông hòa thuận lại với Ngài.” [a]

Ai làm việc thì lương bổng không thể xem là quà biếu mà là tiền công của mình. Nhưng con người không thể làm cách nào để hòa thuận lại với Thượng Đế được. Nên con người phải trông cậy vào Thượng Đế là Đấng có thể khiến cho kẻ ác hòa thuận lại với Ngài. Thượng Đế sẽ chấp nhận đức tin của họ, nhờ đó họ được hòa thuận lại với Ngài. Đa-vít cũng đã nói tương tự như thế. Ông bảo rằng ai được hòa thuận với Thượng Đế, nghĩa là được Ngài tha thứ những tội lỗi của mình, thật có phúc.

“Phúc cho người nào được xóa hết tội,
    bao nhiều việc phạm pháp đều được tha thứ.
Phúc cho kẻ mà Chúa không kết tội.” (A)

Có phải phúc lành nầy chỉ dành cho người được cắt dương bì thôi hay là cũng dành cho người không được cắt dương bì nữa? Chúng ta đã nói rằng Thượng Đế chấp nhận niềm tin của Áp-ra-ham và chính niềm tin ấy khiến ông hòa thuận lại với Ngài. 10 Ông được hòa thuận ra sao? Thượng Đế chấp nhận Áp-ra-ham trước khi ông chịu phép cắt dương bì hay là sau?—Trước khi ông chịu phép cắt dương bì. 11 Áp-ra-ham chịu cắt dương bì để chứng tỏ ông đã hòa thuận lại với Thượng Đế vì ông tin Ngài trước khi chịu cắt dương bì. Cho nên Áp-ra-ham trở nên cha của những người tin nhưng không được cắt dương bì; ông là cha của mọi tín hữu đã hòa thuận lại với Thượng Đế. 12 Áp-ra-ham cũng đồng thời là cha của những người đã chịu cắt dương bì và sống theo niềm tin mà Áp-ra-ham, tổ tiên chúng ta đã có trước khi chịu cắt dương bì.

Thượng Đế giữ lời hứa của Ngài

13 Áp-ra-ham và dòng dõi ông đã nhận lời hứa rằng sản nghiệp của họ sẽ gồm toàn thế giới. Ông nhận lời hứa ấy không nhờ luật pháp mà nhờ giảng hòa lại với Thượng Đế qua đức tin. 14 Nếu chúng ta có thể nhận được lời hứa của Thượng Đế bằng cách tuân giữ luật pháp thì đức tin trở nên vô ích. Lời hứa của Thượng Đế cho Áp-ra-ham cũng vô ích, 15 Vì luật pháp chỉ đưa đến cơn thịnh nộ của Thượng đế mà thôi. Nhưng nơi nào không có luật pháp thì cũng không có việc phạm pháp.

16 Cho nên chúng ta nhận được lời hứa của Thượng Đế qua đức tin. Lời hứa ấy trở thành một quà tặng, mà tất cả con cháu Áp-ra-ham đều có thể nhận. Lời hứa ấy không phải dành cho những người sống dưới luật pháp Mô-se mà là cho những người sống trong đức tin như Áp-ra-ham, tổ phụ chúng ta. 17 Như Thánh Kinh viết, “Ta lập ngươi làm cha của nhiều dân tộc.” [b] Điều nầy được thực hiện trước mặt Thượng Đế vì Áp-ra-ham tin cậy Ngài là Đấng ban sự sống cho kẻ chết và đã sáng tạo mọi vật từ chỗ hư vô.

18 Áp-ra-ham không hi vọng có con cái nối dòng, nhưng ông tin cậy Thượng đế và vẫn nuôi hi vọng, nên ông đã trở thành cha của nhiều dân tộc. Đúng như Thượng Đế đã bảo, “Dòng dõi ngươi sẽ đông không thể đếm được.” [c] 19 Lúc ấy Áp-ra-ham đã gần một trăm tuổi, quá tuổi bình thường để có con, còn Sa-ra thì không thể nào sinh con được. Áp-ra-ham lo âu về điều ấy nhưng niềm tin của ông nơi Thượng Đế vẫn không lay chuyển. 20 Ông không bao giờ hoài nghi rằng Thượng Đế sẽ không giữ lời hứa của Ngài, trái lại ông nắm chắc niềm tin. Ông vững tin hơn và ca ngợi Thượng Đế. 21 Áp-ra-ham tin chắc rằng những gì Ngài hứa thì Ngài cũng có quyền thực hiện được. 22 Cho nên “Thượng Đế chấp nhận đức tin của Áp-ra-ham, và đức tin ấy khiến ông hòa thuận lại với Ngài.” [d] 23 Câu “Thượng Đế chấp nhận đức tin của Áp-ra-ham” không phải chỉ viết cho ông mà thôi 24 mà còn cho chúng ta nữa. Thượng Đế sẽ chấp nhận chúng ta vì chúng ta tin nơi Đấng đã khiến Giê-xu, Chúa chúng ta, sống lại từ kẻ chết. 25 Chúa Giê-xu đã chịu chết vì tội chúng ta, Ngài đã sống lại để chúng ta được hòa thuận lại với Thượng Đế.

Giê-rê-mi-a 42

42 Trong khi ở đó, Giô-ha-nan, con Ca-rê-a và Giê-xa-nia, con Hô-sai-gia đến viếng nhà tiên tri Giê-rê-mi. Tất cả các sĩ quan và toàn thể dân chúng thuộc mọi tầng lớp đều đi theo. Họ nói với ông, “Giê-rê-mi, xin nghe điều chúng tôi yêu cầu. Hãy cầu xin CHÚA là Thượng Đế ông cho những người còn sống sót từ gia đình Giu-đa. Trước kia chúng tôi rất đông đảo nhưng nay như ông thấy, chúng tôi chỉ còn lại rất ít. Cho nên xin ông cầu hỏi CHÚA là Thượng Đế ông xem chúng tôi nên đi đâu hay làm gì.”

Nhà tiên tri Giê-rê-mi đáp, “Ta hiểu các ngươi muốn ta làm gì rồi. Ta sẽ cầu hỏi CHÚA là Thượng Đế các ngươi theo như các ngươi yêu cầu rồi ta sẽ bảo cho các ngươi biết mọi điều Ngài phán, không giấu diếm các ngươi điều gì.”

Dân chúng nói cùng Giê-rê-mi, “Nguyện CHÚA làm nhân chứng chân thật và trung tín nghịch lại chúng tôi nếu chúng tôi không làm mọi điều CHÚA là Thượng Đế ông sai ông bảo chúng tôi. Dù chúng tôi có thích nghe lời Ngài phán hay không cũng không sao. Chúng tôi sẽ vâng theo CHÚA là Thượng Đế chúng ta, Đấng mà chúng tôi nhờ ông khẩn cầu. Chúng tôi sẽ vâng theo lời Ngài phán để phúc lành sẽ đến trên chúng tôi.”

Mười ngày sau CHÚA phán cùng Giê-rê-mi. Giê-rê-mi liền gọi Giô-ha-nan, con Ca-rê-a, các sĩ quan đi với ông cùng toàn thể dân chúng thuộc mọi tầng lớp. Ông nói với họ, “Các ngươi sai ta đi cầu hỏi CHÚA về điều mình muốn. Thượng Đế của Ít-ra-en phán như sau: 10 ‘Nếu các ngươi ở lại Giu-đa, ta sẽ xây các ngươi lên chớ không phá đổ xuống. Ta sẽ trồng các ngươi chớ không nhổ lên vì ta rất buồn về thảm họa mà ta mang đến cho các ngươi. 11 Bây giờ các ngươi sợ vua Ba-by-lôn nhưng đừng e sợ người nữa. Đừng sợ người,’ CHÚA phán, ‘vì ta ở với các ngươi. Ta sẽ giải cứu và giải thoát các ngươi khỏi quyền lực người. 12 Ta sẽ tỏ lòng nhân từ cùng các ngươi, và người cũng sẽ lấy lòng thương xót đối với các ngươi và để các ngươi sống trong xứ mình.’

13 Nhưng nếu các ngươi nói, ‘Chúng tôi sẽ không ở trong xứ Giu-đa,’ tức là các ngươi không vâng lời CHÚA là Thượng Đế mình. 14 Hay nếu các ngươi nói, ‘Không, chúng tôi sẽ đi xuống sống ở Ai-cập. Ở đó chúng tôi sẽ không thấy giặc giã, không nghe tiếng kèn trận, hay bị đói kém.’ 15 Nếu các ngươi nói như thế thì hãy nghe lời CHÚA phán cùng các ngươi là những người còn sống sót trong Giu-đa. CHÚA Toàn Năng, Thượng Đế của Ít-ra-en phán: ‘Nếu các ngươi nhất định đi xuống sống ở Ai-cập thì những việc sau đây sẽ xảy đến: 16 Các ngươi sợ giặc giã nhưng giặc giã sẽ theo đuổi các ngươi ở xứ Ai-cập. Các ngươi lo bị đói kém nhưng đói kém sẽ theo ngươi xuống Ai-cập và các ngươi sẽ chết ở đó. 17 Ai đi xuống Ai-cập đều sẽ chết vì chiến tranh, đói kém hay vì bệnh tật kinh khiếp. Không ai đi xuống Ai-cập mà còn sống; sẽ không ai thoát khỏi những tai họa khủng khiếp mà ta sẽ giáng trên chúng.’”

18 CHÚA Toàn Năng, Thượng Đế của Ít-ra-en phán: “Ta đã tỏ cơn thịnh nộ ta nghịch cùng dân cư Giê-ru-sa-lem. Cũng vậy, ta sẽ tỏ cơn thịnh nộ ta cùng các ngươi khi các ngươi xuống Ai-cập. Các dân tộc khác sẽ nói xấu các ngươi. Họ sẽ sửng sốt khi thấy những tai họa xảy đến cho các ngươi. Ngươi sẽ thành một lời nguyền rủa và người ta sẽ sỉ nhục các ngươi. Các ngươi sẽ không còn được nhìn thấy xứ Giu-đa nữa.”

19 “Hỡi các ngươi là những kẻ còn sống sót trong Giu-đa, CHÚA phán cùng các ngươi, ‘Chớ đi xuống Ai-cập.’ Các ngươi phải hiểu rõ điều đó; hôm nay ta cảnh cáo trước cho các ngươi rằng, 20 các ngươi đã lầm lẫn và sự lầm lẫn đó đưa đến cái chết cho các ngươi. Vì các ngươi nhờ ta cầu hỏi CHÚA là Thượng Đế mình rằng, ‘Hãy cầu hỏi CHÚA là Thượng Đế giùm cho chúng tôi. Xin hãy cho chúng tôi biết điều CHÚA là Thượng Đế chúng tôi phán thì chúng tôi sẽ làm theo.’ 21 Cho nên hôm nay ta đã bảo cho các ngươi biết, nhưng các ngươi không vâng theo lời CHÚA là Thượng Đế các ngươi là Đấng sai ta nói cho các ngươi biết. 22 Vì các ngươi phải hiểu rõ điều nầy: Các ngươi sẽ chết vì chiến tranh, đói kém, và dịch lệ ở xứ mà các ngươi muốn đi đến định cư.”

Thánh Thi 18

Bài ca đắc thắng

[a] Soạn cho nhạc trưởng. Do Đa-vít, tôi tớ CHÚA sáng tác. Đa-vít ca bài nầy cho Chúa khi Ngài cứu ông khỏi tay Sau-lơ và mọi kẻ thù.

18 Lạy CHÚA, tôi yêu mến Ngài.
    Ngài là sức mạnh tôi.

CHÚA là tảng đá, nguồn che chở tôi, Đấng Cứu Rỗi tôi.
CHÚA là khối đá, nơi tôi chạy đến ẩn núp lúc lâm nguy.
    Ngài là cái thuẫn và là sức mạnh cứu tôi [b], Đấng bênh vực tôi.

Tôi kêu xin cùng CHÚA,
    chỉ một mình Ngài là Đấng đáng được ca ngợi.
    Tôi sẽ được giải thoát khỏi tay kẻ thù.
Các dây sự chết đã vây quanh tôi;
    sông sự chết bao phủ tôi.
Các dây sự chết quấn chặt tôi.
    Bẫy sự chết ở trước mặt tôi.
Trong cơn khốn khó,
    tôi kêu cầu cùng CHÚA.
Tôi van xin Ngài giúp đỡ.
    Từ đền thánh Ngài nghe tiếng tôi;
Lời kêu cứu tôi thấu đến tai CHÚA.
Đất rung chuyển mạnh.
    Các nền núi non bị lay động.
Chúng rung chuyển vì CHÚA nổi giận.
Khói xịt ra từ lỗ mũi Ngài,
    miệng Ngài phát ra ngọn lửa hừng,
    than hồng đi trước mặt Ngài.
CHÚA xé toạc các từng trời và ngự xuống trong đám mây đen kịt dưới chân.
10 Ngài cỡi thú có cánh và bay.
    Ngài lượn trên cánh gió.
11 CHÚA dùng bóng tối che phủ mình,
    nơi ở Ngài có mây mù vây kín.
12 Từ sự hiện diện rực rỡ của Ngài
    phát ra mây chứa mưa đá và sấm chớp.
13 CHÚA làm sấm rền trời;
Đấng Tối Cao lên tiếng,
    liền có mưa đá và sấm sét [c].
14 Ngài bắn tên làm quân thù chạy tán loạn.
    Ngài làm sấm chớp khiến chúng lúng túng và kinh hãi.

15 Lạy CHÚA, Ngài nạt một tiếng.
    Gió xịt ra từ lỗ mũi Ngài.
Các đáy biển sâu lộ ra,
    và các nền lục địa phơi bày.

16 Từ trên cao CHÚA với tay nắm tôi;
    kéo tôi lên khỏi đáy nước sâu.
17 Ngài cứu tôi khỏi tay kẻ thù mạnh hơn tôi,
    khỏi tay kẻ ghét tôi,
    vì chúng nó mạnh hơn tôi.
18 Trong cơn khốn khó
    chúng tấn công tôi,
    nhưng CHÚA nâng đỡ tôi.
19 Ngài đưa tôi đến chỗ an toàn.
    Vì ưa thích tôi nên Ngài cứu tôi.
20 Ngài thưởng cho tôi vì tôi sống ngay thẳng.
    Ngài ban thưởng tôi vì tôi không làm điều gì ác.
21 Tôi đã đi theo đường lối CHÚA dạy;
Tôi không làm điều ác bằng cách quay khỏi CHÚA.
22 Tôi không quên luật lệ CHÚA,
    không vi phạm qui tắc của Ngài.
23 Tôi trong sạch trước mặt CHÚA;
    tôi tránh không làm điều ác.
24 CHÚA thưởng tôi vì tôi
    điều ngay thẳng,
    và làm điều đẹp ý CHÚA.

25 Lạy CHÚA, người nào trung tín,
    Ngài cũng trung tín lại,
    người nào nhân từ Ngài cũng nhân từ lại.
26 Đối với kẻ trong sạch,
    CHÚA tỏ ra trong sạch
    nhưng Ngài nghịch lại kẻ xấu xa.
27 CHÚA cứu người khiêm nhường,
    nhưng hạ kẻ tự phụ xuống.
28 Lạy CHÚA, Ngài ban ánh sáng cho ngọn đèn tôi.
    Thượng Đế chiếu sáng chỗ tối quanh tôi.
29 Nhờ Ngài giúp đỡ, tôi có thể tấn công cả đạo binh.
    Nhờ Ngài yểm trợ, tôi có thể nhảy qua tường thành.

30 Đường lối Thượng Đế vô cùng hoàn hảo.
    Lời CHÚA rất tinh sạch.
    Ngài là thuẫn đỡ cho kẻ nào tin cậy nơi Ngài.
31 Ai là Thượng Đế? Chỉ một mình CHÚA thôi.
    Ai là Khối Đá? Chỉ một mình Thượng Đế của chúng ta thôi.
32 Thượng Đế là Đấng khiến tôi thêm sức mạnh.
    Ngài khiến các lối đi của tôi không vấp váp.
33 Ngài làm cho tôi chạy nhanh
    như nai mà không vấp ngã;
    Ngài giúp tôi đứng trên các núi cao.
34 Ngài luyện tay tôi thành thiện chiến,
    nên cánh tay tôi có thể giương nổi cung đồng.

35 Ngài che chở tôi bằng cái khiên cứu rỗi của Ngài.
    Ngài dùng tay phải nâng đỡ tôi.
    Sự giúp đỡ của Ngài khiến tôi thêm mạnh mẽ.
36 Ngài ban cho tôi một lối sống tốt đẹp hơn,
    để tôi sống theo ý muốn Ngài.

37 Tôi rượt đuổi theo kẻ thù và bắt kịp chúng.
    Tôi không ngưng tay cho đến khi chúng nó hoàn toàn bị tiêu diệt.
38 Tôi chà đạp chúng nó đến nỗi chúng không ngóc đầu dậy được.
    Chúng nằm mọp dưới chân tôi.
39 Ngài thêm sức cho tôi trong chiến trận.
    Ngài khiến kẻ thù phải quì lạy trước mặt tôi.
40 Ngài khiến kẻ thù lui bước,
    tôi tiêu diệt những kẻ ghét tôi.
41 Chúng kêu cứu
    nhưng không ai đến giúp.
Chúng kêu cầu CHÚA
    nhưng Ngài chẳng trả lời.
42 Tôi đánh tan nát các kẻ thù tôi,
    giống như bụi bị gió thổi bay.
Tôi trút chúng ra như bùn trên đường.

43 Khi chúng tấn công tôi thì Ngài đến cứu tôi.
    Ngài lập tôi làm lãnh tụ các quốc gia.
Những dân chưa hề biết tôi sẽ phục vụ tôi.
44 Khi nghe đến tôi, họ sẽ vâng phục tôi.
    Các người ngoại quốc cũng sẽ khúm núm trước mặt tôi.
45 Họ sẽ sợ hãi
    và run rẩy khi bước ra khỏi
    nơi trú ẩn của mình.

46 CHÚA muôn đời!
    Khối Đá tôi đáng được ca ngợi.
Đáng tôn vinh Thượng Đế là Đấng cứu tôi!
47 Thượng Đế giúp tôi đắc thắng kẻ thù tôi,
    Ngài đặt mọi dân dưới quyền tôi.
48 Ngài cứu tôi khỏi tay kẻ thù.
Ngài đặt tôi lên trên kẻ ghét tôi.
    Ngài cứu tôi khỏi kẻ hung ác.
49 Cho nên, CHÚA ôi,
    tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa các dân.
Tôi sẽ hát khen danh Ngài.

50 CHÚA ban sự đắc thắng cho vua của Ngài.
Ngài thành tín đối với vua Ngài đã lập,
    với Đa-vít và dòng dõi người cho đến mãi mãi.

Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)

Copyright © 2010 by World Bible Translation Center