Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)
Version
Giô-sua 18-19

Phân chia các phần đất còn lại

18 Toàn thể dân Ít-ra-en tập họp tại Si-lô nơi họ dựng Lều Họp. Toàn xứ bây giờ đã thuộc quyền kiểm soát của họ. Nhưng vẫn còn bảy chi tộc chưa được cấp phát đất đai.

Nên Giô-suê bảo dân Ít-ra-en, “Các ngươi còn chần chờ gì nữa mà chưa đi chiếm xứ? Chúa, là Thượng Đế của tổ tiên, đã ban xứ nầy cho các ngươi rồi. Vậy hãy chọn mỗi chi tộc ba người để tôi cử đi nghiên cứu xứ. Họ sẽ dùng giấy bút tường trình cho chi tộc mình về đất đai mà họ muốn chiếm, rồi sẽ trở về đây với tôi. Anh em sẽ chia xứ ra làm bảy phần. Người Giu-đa sẽ giữ phần đất miền nam, còn con cháu Giô-xép sẽ giữ phần đất miền bắc. Anh em hãy mô tả bảy phần đất bằng giấy mực hẳn hoi, rồi trình cho tôi xem. Xong tôi sẽ bắt thăm truớc mặt Chúa, là Thượng Đế chúng ta.” Tuy nhiên người Lê-vi không nhận được phần đất nào trong đó, vì họ là các thầy tế lễ có nhiệm vụ phục vụ Chúa. Các chi tộc Gát, Ru-bên và Ma-na-xe phía đông đã nhận được phần đất hứa cho mình tức là vùng đông sông Giô-đanh. Mô-se, tôi tớ Chúa, đã cấp phần đất đó cho họ.

Sau đó, những người được chọn để nghiên cứu đất đai lên đường. Giô-suê dặn họ, “Các anh hãy đi nghiên cứu lãnh thổ và mô tả bằng giấy mực, rồi trở về trình cho tôi. Sau đó tôi sẽ bắt thăm trước mặt Chúa tại Si-lô đây.”

Họ khởi hành vào xứ. Họ mô tả tỉ mỉ từng thị trấn nằm trong bảy phần đất trên một cuộn giấy rồi trở về gặp Giô-suê, lúc đó vẫn còn ở trong lều quân tại Si-lô. 10 Tại đó, Giô-suê bắt thăm trước mặt Chúa để biết mỗi chi tộc sẽ nhận được phần đất nào.

Phần đất cấp cho chi tộc Bên-gia-min

11 Phần đất đầu tiên được cấp cho chi tộc Bên-gia-min. Mỗi họ hàng nhận được phần đất nằm giữa chi tộc Giu-đa và đất của Giô-xép. Sau đây là phần đất bắt thăm cho Bên-gia-min: 12 Ranh giới phía bắc bắt đầu từ sông Giô-đanh chạy dọc theo mạn bắc Giê-ri-cô rồi quay qua hướng tây chạy vào vùng núi. Ranh giới kéo dài cho đến phía đông Bết A-ven. 13 Từ đó ranh giới chạy về hướng nam đến Lu-xơ, cũng gọi là Bê-tên, rồi xuống đến A-ta-rốt-A-đa, nằm trên núi Giốt về phía nam của vùng hạ Bết-hô-rôn. 14 Từ đồi nầy về phía nam Bết-hô-rôn, ranh giới quay sang phía nam gần sườn đồi phía tây. Rồi nó chạy đến Ki-ri-át-Ba-anh, còn có tên là Ki-ri-át Giê-a-rim, thị trấn mà dân Giu-đa sinh sống. Đó là ranh giới phía tây.

15 Ranh giới phía nam bắt đầu từ Ki-ri-át Giê-a-rim chạy về hướng tây đến các suối Nếp-tô-a. 16 Từ đó nó rẽ xuống chân đồi, gần thung lũng Bên-Hi-nôm, nằm về phía bắc thung lũng Rê-pha-im, rồi chạy dài xuống thung lũng Hi-nôm, ngay phía nam của thành Giê-bu-sít đến Ên-rô-gen. 17 Từ đó nó quay qua hướng bắc suốt đến Ên-sê-mết. Nó tiếp tục chạy đến Ghê-li-ốt gần đèo A-đu-mim rồi rẽ xuống Hòn Đá Lớn tên là Bô-han, theo tên con của Ru-bên. 18 Ranh giới chạy đến phía Bắc của dốc Bết A-ra-ba rồi đổ xuống Thung lũng sông Giô-đanh. 19 Từ đó nó chạy lên khu vực miền bắc của dốc Bết Hốt-la và chấm dứt ở bờ phía bắc của Biển Chết, nơi sông Giô-đanh đổ vào Biển Chết. Đó là giới hạn phía Nam.

20 Sông Giô-đanh là ranh giới phía đông. Phần đất cấp cho họ hàng Bên-gia-min, có các ranh giới bao quanh bốn phía. 21 Họ hàng Bên-gia-min cũng nhận được các thành sau đây: Giê-ri-cô, Bết Hốt-la, Ê-méc-Kê-xi, 22 Bết A-ra-ba, Xê-ma-ra-im, Bê-tên, 23 A-vim, Pha-ra, Óp-ra, 24 Kê-pha-A-mô-ni, Óp-ni, và Ghê-ba. Tất cả mười hai thị trấn và thôn ấp.

25 Chi tộc Bên-gia-min cũng nhận được Ghi-bê-ôn, Ra-ma, Bê-ê-rốt, 26 Mích-ba, Kê-phi-ra, Mô-xa, 27 Rê-kem, Ích-bê-ên, Ta-ra-la, 28 Xê-la, Ha-ê-lép, thành của dân Giê-bu-sít tức Giê-ru-sa-lem, Ghi-bê-a, và Ki-ri-át. Tất cả là mười bốn thị trấn và thôn ấp. Đó là tất cả đất đai cấp cho họ hàng Bên-gia-min.

Vùng đất cấp cho chi tộc Xi-mê-ôn

19 Phần đất thứ hai cấp cho chi tộc Xi-mê-ôn. Mỗi gia tộc nhận được một phần đất nằm bên trong địa phận Giu-đa. Họ nhận được Bê-e-sê-ba, còn gọi là Sê-ba, Mô-la-đa, Ha-xa-Su-anh, Ba-la, Ê-xem, Ên-tô-lát, Bê-thun, Họt-ma, Xiếc-lác, Bết-Mạc-ca-bốt, Ha-xa-Su-sa, Bết-Lê-bao-ốt, và Sa-ru-hen. Tất cả mười ba thị trấn và thôn ấp.

Họ nhận các thị trấn A-in, Rim-môn, Ê-the, và A-san, gồm bốn thị trấn và thôn ấp. Họ cũng nhận được tất cả các làng quanh các thị trấn ấy cho đến Ba-a-lát Bê-e. Vùng nầy cũng như Ra-ma thuộc miền nam Ca-na-an. Đó là các vùng đất cấp cho các họ hàng Xi-mê-ôn. Đất cấp cho Xi-mê-ôn lấy một phần từ đất của Giu-đa. Vì Giu-đa có dư đất, nên người Xi-mê-ôn lấy một phần đất của họ.

Phần đất cấp cho chi tộc Xê-bu-lôn

10 Phần đất thứ ba được cấp cho chi tộc Xê-bu-lôn. Mỗi họ hàng Xê-bu-lôn nhận được một phần đất. Ranh giới Xê-bu-lôn chạy đến tận Sa-rít. 11 Nó đi về phía tây đến Ma-ra-la rồi đụng Đáp-bê-sết và kéo dài tới hố gần Giốc-nam 12 rồi rẽ về phía đông. Từ Sa-rít nó chạy tới vùng Kít-lốt-Ta-bo và chạy mãi đến Đa-bê-ra rồi tới Gia-phia. 13 Ranh giới tiếp tục chạy về hướng đông đến Gát-Hê-phe và Ết-Ka-xin, chấm dứt ở Rim-môn. Sau đó nó quay về phía Nê-a. 14 Về phía Bắc, ranh giới quay sang hướng Bắc đến Han-na-thôn rồi tiếp tục tới Thung lũng Íp-ta-ên. 15 Bên trong ranh giới nầy có các thành Kát-tát, Na-ha-lan, Sim-rôn, Y-đa-la và Bết-lê-hem. Tất cả là mười hai thị trấn và thôn ấp.

16 Đó là các thị trấn và thôn ấp cấp cho họ hàng Xê-bu-lôn.

Phần đất cấp cho chi tộc Y-xa-ca

17 Phần đất thứ tư được cấp cho chi tộc Y-xa-ca. Mỗi họ hàng của Y-xa-ca nhận được một phần đất. 18 Đất của họ gồm Ghít-rê-ên, Kê-su-lốt, Su-nem, 19 Ha-pha-ra-im, Si-ôn, A-na-ha-rát, 20 Ra-bít, Ki-si-ôn, Ê-bét, 21 Rê-mết, Ên-Ga-nim, Ên-Ha-đa và Bết-Ba-giê.

22 Ranh giới của họ tiếp giáp một vùng gọi là Ta-bo, Sa-ha-giu-ma, và Bết-Sê-mết rồi dừng ở sông Giô-đanh. Tất cả có mười sáu thị trấn và thôn ấp. 23 Các thành và thị trấn nầy là một phần lãnh thổ được cấp cho các họ hàng Y-xa-ca.

Phần đất cấp cho chi tộc A-se

24 Phần đất thứ năm được cấp cho chi tộc A-se. Mỗi họ hàng của A-se nhận được một phần đất. 25 Đất của họ gồm Hên-cát, Ha-li, Bê-tên, Ạc-sáp, 26 A-la-mê-léc, A-mát, và Mi-sanh.

Ranh giới phía tây tiếp giáp núi Cạt-mên và Si-ho Líp-nát. 27 Đoạn ranh giới quay sang phía đông chạy tới Bết Đa-gôn, tiếp giáp biên giới Xê-bu-lôn và Thung lũng Íp-ta-ên. Xong, quay sang hướng bắc của Bết-Ê-méc và Nê-i-ên, rồi chạy qua phía bắc đến Ca-bun. 28 Từ đó nó chạy đến Áp-đôn [a], Rê-hốp, Ham-môn, và Ca-na; xong, tiếp tục chạy đến vùng Xi-đôn Lớn. 29 Sau đó ranh giới chạy trở về nam theo hướng Ra-ma và tiếp tục tới thành Tia, tức thành có vách kiên cố. Từ đó nó quay về phía Hô-sa, chấm dứt ở biển. Đó là vùng của Ạc-xíp, 30 U-ma, A-phéc, và Rê-hốp.

Tất cả hai mươi hai thị trấn và thôn ấp. 31 Những thành và thôn ấp nầy nằm trong phần đất cấp cho các họ hàng A-se.

Phần đất cấp cho chi tộc Nép-ta-li

32 Phần đất thứ sáu được cấp cho chi tộc Nép-ta-li. Mỗi họ hàng của Nép-ta-li nhận được một phần đất. 33 Ranh giới của họ bắt đầu từ Cây Lớn ở Gia-a-na-nin, gần Hê-lép. Rồi nó đi qua A-đa-mi Nê-kép và Giáp-ni-ên, chạy đến tận Lát-cum xong chấm dứt ở sông Giô-đanh. 34 Sau đó nó chạy về phía tây qua A-nốt Ta-bo rồi dừng ở Húc-cốc. Nó chạy đến vùng Xê-bu-lôn về phía nam, A-se về phía tây, và Giu-đa ở sông Giô-đanh, về phía đông. 35 Những thành có vách kiên cố nằm trong các ranh giới nầy là Xi-đim, Xe, Ham-mát, Ra-ca, Ki-nê-rết, 36 A-đa-ma, Ra-ma, Hát-xo, 37 Kê-đết, Ết-rê-i, Ên-ha-xon, 38 Ai-ôn, Mích-danh-ên, Hô-rem, Bết-A-nát, và Bết-sê-mết. Tất cả mười chín thị trấn và thôn ấp.

39 Đó là các thành và các thôn ấp chung quanh nằm trong vùng đất được cấp cho họ hàng Nép-ta-li.

Vùng đất cấp cho chi tộc Đan

40 Phần đất thứ bảy được cấp cho chi tộc Đan. Mỗi gia đình của chi tộc Đan được cấp một số đất. 41 Đất của họ gồm Xô-ra, Ết-ta-ôn, Ia-Sê-mết, 42 Sa-a-la-bin, Ai-gia-lôn, Ít-la, 43 Ê-lôn, Thim-na, Éc-rôn, 44 Ên-tê-ke, Ghi-bê-thôn, Ba-a-lát, 45 Giê-hút, Bên-Bê-rác, Gát-Rim-môn, 46 Mi-Giác-côn, Rác-côn và vùng gần Gióp-bê.

47 (Nhưng người Đan gặp trở ngại khi nhận đất. Họ phải đi đánh chiếm Lê-sem [b], giết hết dân cư trong thành rồi vào đó định cư, đổi tên thành ra Đan là tên tổ phụ của chi tộc họ.) 48 Tất cả các thị trấn và thôn ấp nầy được cấp cho các họ hàng thuộc chi tộc Đan.

Phần đất cấp cho Giô-suê

49 Sau khi các lãnh đạo đã phân chia đất đai cho các chi tộc xong rồi, dân Ít-ra-en liền cấp đất cho Giô-suê, con trai của Nun. 50 Họ cấp cho Giô-suê thị trấn ông xin, tức Thim-nát Sê-ra [c] trong vùng núi Ép-ra-im theo như Chúa truyền dặn. Ông xây sửa lại thị trấn này và định cư tại đó.

51 Tất cả đất đai vừa kể được phân chia cho các chi tộc Ít-ra-en theo lối bắt thăm do thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê con trai của Nun, và các lãnh đạo của mỗi chi tộc thực hiện tại Si-lô. Họ họp nhau trước mặt Chúa tại nơi cửa Lều Họp. Họ hoàn tất việc chia đất bằng phương thức ấy.

Thánh Thi 149-150

Ca ngợi Thượng Đế của Ít-ra-en

149 Hãy ca ngợi Chúa!
    Hãy hát một bài ca mới cho Ngài;
Hãy ca ngợi giữa buổi họp của dân Ngài.
Toàn dân Ít-ra-en hãy vui mừng vì Thượng Đế,
    Đấng dựng nên mình.
Dân cư Giê-ru-sa-lem hãy vui mừng vì vua mình.
Hãy nhảy múa mà ca ngợi Ngài.
    Hãy đánh trống cơm và dùng đờn cầm mà ca tụng Chúa.
Chúa hài lòng với dân Ngài;
    Ngài cứu kẻ khiêm nhường.
Hỡi những ai thờ phụng Ngài
    hãy vui mừng trong vinh hiển Ngài.
Dù khi đang nằm trên giường cũng hãy ca tụng Ngài!

Mọi người hãy lớn tiếng ca tụng Chúa
    bằng gươm hai lưỡi trong tay.
Họ sẽ trừng phạt các nước,
    đánh bại các dân.
Họ sẽ trói các vua bằng xiềng
    và cột những người có quyền thế bằng xích sắt.
Họ sẽ trừng phạt chúng theo bản án Thượng Đế định.
    Đó là vinh dự cho những kẻ theo Ngài.

Hãy ca tụng Chúa!

Hãy dùng âm nhạc mà ca ngợi Chúa

150 Hãy ca ngợi Chúa!
    Hãy ca tụng Thượng Đế trong đền thờ Ngài;
Hãy tán dương Chúa trên các từng trời hùng vĩ.
Hãy ca ngợi sức mạnh Ngài,
    tán tụng Chúa vì sự cao cả của Ngài.
Hãy thổi hồi kèn vang dội mà ca tụng Chúa.
    Hãy khảy đờn cầm với đờn sắt mà tán dương Ngài.
Hãy đánh trống cơm và nhảy múa mà ca ngợi Ngài.
    Hãy dùng nhạc khí bằng dây và sáo mà ca tụng Chúa.
Hãy đánh chập chỏa
    và phèn la vang rền để ca ngợi Ngài.

Mọi vật có hơi thở hãy ca ngợi Chúa.

Hãy ca tụng Ngài!

Giê-rê-mi-a 9

Ước gì đầu tôi là suối nước
    và mắt tôi là nguồn lệ!
Để tôi than khóc ngày đêm
    cho những người dân của tôi đã bị giết.
Ước gì tôi có một nơi ở trong sa mạc,
    một cái nhà để lữ khách trú đêm,
    để tôi có thể tránh xa dân tôi.
Để tôi có thể tạm xa lánh họ,
    vì họ đều bất trung cùng Thượng Đế;
    ai nấy đều chống nghịch Ngài.

Sự thất bại của Giu-đa

“Chúng dùng lưỡi mình như cái cung,
    bắn những lời dối gạt
    ra khỏi miệng mình như tên.
Sự dối trá, không phải sự thật,
    đã lan tràn khắp xứ.
Chúng làm từ chuyện ác nầy đến chuyện ác khác.
    Chúng chẳng biết ta là ai,” CHÚA phán vậy.
“Ai nấy hãy trông chừng bạn hữu mình,
    chớ tin tưởng thân nhân mình,
vì ai nấy đều lường gạt lẫn nhau,
    bạn bè đi phao điều láo khoét về ngươi.
Ai nấy đều nói dối cùng bạn mình,
    chẳng có ai nói thật cả.
Dân Giu-đa đã tập lưỡi mình nói dối.
    Chúng phạm tội đến khi thấm mệt.
Hỡi Giê-rê-mi, ngươi sống giữa những lời dối gạt;
    vì nói dối nên chúng không chịu nhìn biết ta,”
    CHÚA phán vậy.

Nên CHÚA Toàn Năng phán như sau:
“Ta sẽ thử nghiệm dân Giu-đa
    như người ta dùng lửa thử kim loại.
Ta không có cách nào khác,
    vì dân ta đã phạm tội.
Lưỡi chúng bén nhọn như tên.
    Môi miệng chúng nói điều dối trá.
Ai nấy đều nói ngon ngọt cùng người láng giềng mình,
    mà trong lòng thì manh tâm hại họ.”
CHÚA hỏi, “Chẳng lẽ ta không trừng phạt
    những kẻ làm như thế sao?”
“Chẳng sẽ ta không giáng trừng phạt trên một dân như vậy
    cho xứng đáng với tội chúng sao?”

10 Tôi, Giê-rê-mi, sẽ khóc lóc thảm thiết cho các núi non
    và hát bài ai ca cho các ruộng nương bỏ phế.
Tất cả đều hoang vu, không ai qua lại.
    Tiếng bò rống không còn nghe.
Chim chóc bay đi cả rồi,
    và thú vật cũng chẳng còn.

11 CHÚA phán,
“Ta, CHÚA, sẽ biến thành Giê-ru-sa-lem
    ra đống hoang tàn, thành một nơi ở của chó rừng.
Ta sẽ hủy diệt các thành của Giu-đa
    để không còn ai ở đó.”

12 Ai là người khôn ngoan
    để hiểu biết những điều nầy?
    Có ai được CHÚA dạy bảo
    để giải thích những chuyện nầy không?
Tại sao đất bị hủy hoại?
    Tại sao xứ đã trở thành sa mạc hoang vu không ai ở?
13 CHÚA đáp,
“Vì dân Giu-đa đã bỏ lời giáo huấn mà ta đã truyền cho.
    Chúng không vâng lời hay làm theo điều ta dặn bảo.
14 Ngược lại, chúng đã ương ngạnh,
    chạy theo Ba-anh như tổ tiên chúng dạy bảo.”
15 Vì vậy mà CHÚA Toàn Năng, Thượng Đế của Ít-ra-en phán:
    “Ta sẽ sớm khiến dân Giu-đa ăn vật đắng và uống nước độc.
16 Ta sẽ phân tán chúng ra trong các dân tộc khác mà cả chúng lẫn tổ tiên chúng chưa hề biết.
    Ta sẽ dùng gươm đánh đuổi dân cư Giu-đa
    cho đến khi chúng bị tận diệt.”

17 CHÚA Toàn Năng phán như sau:
    “Bây giờ hãy suy nghĩ đến những chuyện nầy!
Hãy gọi những người đàn bà khóc mướn đến.
    Hãy mời những đàn bà giỏi về nghề đó.
18 Bảo họ đến ngay
    và than khóc cho chúng ta.
Để cho mắt chúng ta đẫm lệ,
    và đôi dòng nước mắt sẽ tuôn chảy
    từ mí mắt chúng ta.
19 Người ta nghe tiếng kêu khóc thảm thiết
    từ Giê-ru-sa-lem:
    ‘Chúng ta bị hủy hoại rồi!
    Chúng ta thật đáng xấu hổ!
Chúng ta phải rời xứ mình,
    vì nhà cửa chúng ta tiêu tan rồi.’”

20 Bây giờ, hỡi các phụ nữ Giu-đa,
    hãy nghe lời CHÚA phán:
    hãy mở lỗ tai các ngươi ra
    mà nghe lời từ miệng Ngài.
Hãy dạy con gái các ngươi
    biết khóc lóc thảm thiết.
Hãy dạy nhau hát bài ai ca.
21 Cái chết đã trèo qua cửa sổ chúng ta,
    xâm nhập vào các lâu đài,
    và thành phố của chúng ta.
Cái chết đã ập đến bắt các trẻ con chúng ta
    đang chơi ngoài phố
và các trai tráng đang gặp gỡ nhau
    nơi công viên.

22 Hãy bảo, “CHÚA phán như sau:
    ‘Thây người sẽ nằm la liệt trong đồng trống
    như phân bón.
Chúng sẽ nằm la liệt như lúa
    mà nhà nông mới gặt,
    nhưng không ai gom lại.’”

23 CHÚA phán như sau:
    “Người khôn chớ khoe về sự khôn ngoan mình.
Người mạnh chớ khoe về sức lực mình.
    Người giàu chớ khoe về của cải mình.
24 Nhưng ai muốn khoe thì hãy khoe rằng
    mình hiểu biết CHÚA.
Hãy khoe rằng ta là CHÚA,
    và rằng ta nhân từ và công bằng,
    làm điều phải trên đất.
Khoe như thế làm vừa lòng ta,” CHÚA phán vậy.

25 CHÚA phán, “Đến lúc ta sẽ trừng phạt những kẻ chỉ có cắt dương bì trong thể xác thôi: 26 dân Ai-cập, Giu-đa, Ê-đôm, Am-môn, Mô-áp, và các dân du mục trong sa mạc cắt tóc ngắn. Vì đàn ông của các dân đó không cắt dương bì. Còn cả nhà Ít-ra-en cũng không hết lòng phục vụ ta.” [a]

Ma-thi-ơ 23

Chúa Giê-xu lên án một số lãnh tụ(A)

23 Sau đó Chúa Giê-xu nói với dân chúng và các môn đệ rằng, “Các giáo sư luật và người Pha-ri-xi có quyền bảo các ngươi những gì luật Mô-se dạy. Cho nên hãy vâng giữ theo điều họ khuyên dạy nhưng đừng noi gương đời sống của họ. Vì họ dạy một đằng mà làm một nẻo. Họ đặt ra các qui luật thật khắt khe khiến người ta theo không nổi, còn chính họ thì lại không động ngón tay vào.

Họ làm cái gì cũng muốn cho người ta thấy. Họ làm mấy hộp đựng Thánh Kinh [a] để mang trên người cho lớn hơn, mặc mấy áo tụng kinh cho dài. Những người Pha-ri-xi và giáo sư luật thích ngồi chỗ tốt nhất trong các đám tiệc và hàng ghế đầu nơi hội đường. Họ thích người ta kính cẩn chào mình nơi phố chợ và ưa người ta gọi mình bằng ‘thầy.’

Nhưng các con đừng để ai gọi mình là ‘thầy’ vì các con chỉ có một Thầy, còn các con đều là anh chị em với nhau. Cũng đừng gọi người nào trên đất là ‘cha’ vì các con chỉ có một Cha trên thiên đàng. 10 Cũng đừng để ai gọi mình là ‘chủ,’ vì các con chỉ có một Chủ là Đấng Cứu Thế. 11 Ai làm tôi tớ các con mới là người lớn nhất trong các con. 12 Người nào tự tôn sẽ bị hạ xuống. Người nào khiêm nhường sẽ được tôn cao.

13 Khốn cho các ông là người Pha-ri-xi và các giáo sư luật. Các ông là kẻ giả đạo đức! Các ông chận đường không cho ai vào Nước Trời. Chính mình các ông không vào mà ai muốn vào thì ngăn cản. 14 [b]

15 Khốn cho các ông, giáo sư luật và người Pha-ri-xi! Các ông là kẻ giả đạo đức! Các ông đi ngang đất, dọc biển để cố gắng thuyết phục người theo mình. Khi làm được rồi thì các ông biến người đó đáng vô hỏa ngục hơn các ông nữa.

16 Khốn cho các ông là người mù dẫn đường kẻ khác. Các ông nói, ‘Nếu ai chỉ đền thờ mà thề điều gì thì không sao. Nhưng nếu chỉ vàng của đền thờ mà thề thì phải giữ lời thề ấy.’ 17 Nầy kẻ vừa mù vừa dại! Vàng của đền thờ và đền thờ làm cho vàng hóa thánh, cái nào quan trọng hơn? 18 Các ông còn dạy, ‘Nếu ai chỉ bàn thờ mà thề thì không sao, nhưng nếu chỉ của lễ trên bàn thờ mà thề thì phải giữ lời thề ấy.’ 19 Nầy kẻ mù! Của lễ trên bàn thờ và bàn thờ làm cho của lễ hóa thánh, cái nào trọng hơn? 20 Ai chỉ bàn thờ mà thề là chỉ luôn bàn thờ cùng những của lễ trên đó. 21 Còn người nào chỉ đền thờ mà thề, là chỉ đền thờ và luôn cả những gì trong đền thờ. 22 Người nào chỉ trời mà thề, là chỉ ngôi Thượng Đế và Đấng ngự trên ngôi đó.

23 Khốn cho các ông, các giáo sư luật và người Pha-ri-xi! Các ông là kẻ giả đạo đức! Các ông dâng cho Thượng Đế một phần mười về mọi món lợi tức, cho đến cả cọng bạc hà, hồi hương và rau cần. [c] Nhưng các ông bỏ qua điều hệ trọng nhất trong luật pháp—công bằng, bác ái và lòng trung thành. Đó là những điều các ông phải làm mà cũng không được bỏ qua những điều kia. 24 Các ông là người mù dẫn người mù! Các ông gắp con ruồi ra khỏi ly nước, nhưng lại nuốt trửng con lạc đà! [d]

25 Khốn cho các ông, các giáo sư luật và người Pha-ri-xi! Kẻ đạo đức giả! Các ông rửa bên ngoài chén dĩa mà bên trong đầy những thứ dơ bẩn do lường gạt kẻ khác để cho đầy túi tham. 26 Nầy người Pha-ri-xi là những kẻ mù! Phải rửa bên trong dĩa cho sạch trước thì bên ngoài mới hoàn toàn sạch được.

27 Khốn cho các ông, các giáo sư luật và người Pha-ri-xi! Kẻ giả đạo đức! Các ông giống như mồ mả phết sơn trắng. Bên ngoài nhìn rất đẹp mà bên trong thì đầy dẫy xương người chết và mọi thứ dơ bẩn. 28 Các ông cũng giống thế. Người ta nhìn bề ngoài thấy các ông đức hạnh, nhưng bên trong toàn là giả đạo đức và gian ác.

29 Khốn cho các ông, các giáo sư luật và người Pha-ri-xi! Kẻ giả đạo đức! Các ông xây mồ mả cho các nhà tiên tri và tô điểm mộ của những người đức hạnh. 30 Các ông bảo, ‘Nếu chúng ta sống cùng thời với các tổ tiên, chúng ta sẽ không khi nào ra tay giết các nhà tiên tri.’ 31 Chính các ông chứng tỏ rằng mình là con cháu của những người đã giết các nhà tiên tri ấy. 32 Vậy hãy làm cho xong tội lỗi mà tổ tiên các ông đã bắt đầu đi!

33 Các ông là loài rắn, gia đình rắn độc! Làm sao các ông thoát khỏi bản án của Thượng Đế và hình phạt nơi hỏa ngục được? 34 Ta bảo cho các ông biết: Ta sai các nhà tiên tri, những người thông thái và các giáo sư đến với các ông. Một số bị các ông giết, số khác bị các ông đóng đinh. Số khác nữa bị các ông đánh đập trong các hội đường và săn đuổi từ thành nầy qua thành kia. 35 Cho nên các ông sẽ gánh tội ác về cái chết của những người nhân đức đã bị giết trên đất—từ vụ giết người nhân đức A-bên cho đến vụ giết Xa-cha-ri, [e] con của Bê-ra-kia, mà các ông đã giết chết khoảng giữa đền thờ và bàn thờ. 36 Ta bảo thật, tất cả những chuyện ấy sẽ xảy đến cho các ông là những kẻ hiện đang sống.

Chúa Giê-xu than khóc về thành Giê-ru-sa-lem(B)

37 Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem ơi! Ngươi giết các nhà tiên tri và ném đá chết những người được sai đến cùng ngươi. Nhiều lần ta muốn gom dân cư ngươi lại như gà mẹ túc con vào dưới cánh mà ngươi không chịu. 38 Giờ đây nhà ngươi sẽ hoàn toàn bị bỏ hoang. 39 Ta bảo thật, ngươi sẽ không còn thấy ta nữa cho đến khi ngươi nói, ‘Phúc cho Đấng nhân danh Chúa mà đến.’ [f]

Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)

Copyright © 2010 by World Bible Translation Center