M’Cheyne Bible Reading Plan
Trang phục cho các thầy tế lễ
28 “Hãy bảo A-rôn, anh con cùng với các con trai người là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-xa, và Y-tha-ma đến cùng con. Con hãy biệt riêng họ ra khỏi các người Ít-ra-en khác để làm thầy tế lễ cho ta.
2 Hãy may các trang phục thánh cho A-rôn, anh con để người được tôn kính và tươm tất. 3 Hãy bảo các thợ thủ công lành nghề mà ta đã ban khôn ngoan để may các trang phục cho A-rôn tức là những trang phục chứng tỏ người thuộc về ta đặng làm thầy tế lễ cho ta. 4 Sau đây là những trang phục họ phải may: một bảng che ngực, một áo lót thánh, một áo ngoài, một áo dệt trong, một khăn vấn đầu, và một thắt lưng bằng vải. Các thợ thủ công phải may các trang phục thánh đó cho A-rôn và các con trai người. Rồi những người đó sẽ làm thầy tế lễ cho ta. 5 Các thợ thủ công phải dùng chỉ vàng, xanh, tím và đỏ để may và vải gai mịn.”
Áo ngắn thánh
6 “Hãy dùng chỉ vàng, xanh, tím và đỏ và vải gai mịn để may áo ngắn thánh. Các thợ thủ công sẽ may áo đó. 7 Ở mỗi góc phía trên của áo ngắn thánh phải có một cặp nâng vai cột với nhau ngang qua vai.
8 Các thợ thủ công phải cẩn thận dệt một sợi dây đai trên áo ngắn thánh làm cùng một loại vật liệu tức chỉ vàng, xanh, tím, đỏ và vải gai mịn.
9 Dùng hai viên ngọc mã não và khắc tên của mười hai con trai Ít-ra-en lên đó, 10 mỗi viên ghi sáu tên. Hãy khắc các tên theo thứ tự từ con trai cả cho đến con trai út. 11 Hãy khắc tên của các con trai Ít-ra-en trên các viên ngọc đó như người ta khắc chữ hay kiểu trên con dấu. Lót vàng quanh các viên ngọc để giữ chúng trong áo ngắn thánh. 12 Xong đính hai viên ngọc lên hai đai vai của áo ngắn thánh để ghi nhớ mười hai con trai Ít-ra-en. A-rôn phải đeo tên của họ trên vai khi ra trước mặt CHÚA để nhắc nhở các con trai Ít-ra-en. 13 Làm hai miếng vàng để giữ các viên ngọc 14 và hai sợi dây chuyền vàng, xoắn lại như dây thừng. Buộc dây chuyền vào hai miếng vàng để giữ các viên ngọc.”
Bảng che ngực
15 “Hãy làm một bảng che ngực (hay túi phán xử) để giúp những khi cần quyết định. Các thợ thủ công phải làm bảng nầy như làm áo ngắn thánh tức dùng chỉ vàng, xanh, tím, đỏ và vải gai mịn. 16 Bảng che ngực hình vuông dài một gang tay [a], rộng một gang tay và xếp đôi lại để làm túi. 17 Hãy nạm bốn hàng ngọc trên bảng che ngực: hàng đầu dùng hồng ngọc, bích ngọc, và hoàng ngọc; 18 hàng nhì dùng thanh ngọc, lam ngọc, lục ngọc 19 hàng thứ ba dùng bửu ngọc, bạch ngọc, và tinh ngọc; 20 hàng thứ tư dùng kim ngọc, vân ngọc, và ngọc thạch. Cẩn vàng quanh các viên ngọc nầy để gắn chúng vào trong bảng che ngực. 21 Gắn mười hai viên ngọc trên bảng che ngực mỗi viên cho một tên của các con trai Ít-ra-en. Trên mỗi viên ngọc khắc một tên trong mười hai chi tộc như người ta khắc con dấu.
22 Làm các sợi dây chuyền vàng, xoắn lại như dây thừng, để đeo bảng che ngực. 23 Làm hai khoen vàng móc vào hai góc trên của bảng che ngực. 24 Cột hai sợi dây chuyền vàng vào hai khoen ở góc trên của bảng che ngực. 25 Cột đầu kia của hai sợi dây chuyền vào hai miếng vàng trên đai vai trước áo ngắn thánh. 26 Làm hai khoen vàng gắn nơi hai góc dưới của bảng che ngực, bên viền trong cạnh áo ngắn thánh. 27 Làm hai khoen vàng nữa gắn nơi cuối của đai vai trước áo ngắn thánh. Đặt các khoen đó gần đường may phía trên thắt lưng bằng vải dệt của áo ngắn thánh. 28 Nối các khoen của bảng che ngực với các khoen của áo ngắn thánh bằng dải băng xanh, nối nó với thắt lưng bằng vải để bảng che ngực không bị lúc lắc khỏi áo ngắn thánh.
29 Khi A-rôn vào Nơi Thánh, người sẽ đeo tên của các con trai Ít-ra-en trên bảng che ngực để giúp người thực hiện những quyết định. Đó sẽ là vật nhắc nhở luôn luôn trước mặt CHÚA. 30 Đặt U-rim và Thu-mim bên trong bảng che ngực để chúng luôn luôn nằm trước ngực khi người đi vào trước mặt CHÚA. Chúng sẽ giúp người làm các quyết định cho dân Ít-ra-en. Nên khi A-rôn đến trước mặt CHÚA người sẽ mang chúng theo luôn luôn.
31 May một cái áo dài ngoài để mặc bên dưới áo ngắn thánh, chỉ dùng vải xanh mà thôi. 32 Khoét một lỗ ngay giữa để A-rôn tròng đầu vào và dệt nơi cổ để lỗ không bị rách. 33 Làm các quả cầu tròn giống trái lựu bằng chỉ xanh, tím, đỏ để treo chúng quanh viền dưới của áo dài ngoài, chen giữa các trái cầu là các chuông vàng. 34 Xung quanh viền dưới của áo dài ngoài treo một chuông vàng rồi một quả lựu, chuông vàng rồi quả lựu nữa nối tiếp nhau. 35 Khi thi hành chức thầy tế lễ, A-rôn phải mặc áo dài đó. Khi vào ra Nơi Thánh trước mặt CHÚA thì tiếng chuông sẽ rung lên để A-rôn khỏi chết.
36 Hãy làm một thẻ bằng vàng ròng và khắc trên đó những chữ sau đây giống như khắc con dấu: ‘Thánh khiết cho CHÚA [b].’ 37 Dùng dải băng xanh để buộc nó vào khăn vành quấn đầu; đặt nó phía trước khăn vành quấn đầu. 38 A-rôn phải mang nó trên trán. Như thế để người chịu trách nhiệm nếu có gì sơ xuất trong những của lễ của người Ít-ra-en. A-rôn phải mang nó trên đầu người luôn luôn để Thượng Đế chấp nhận của lễ của dân chúng. [c]
39 Dệt một áo trong bằng vải gai mịn, và làm băng bịt đầu cũng bằng vải gai mịn. Làm thắt lưng bằng vải có thêu kiểu trên đó. 40 Ngoài ra dệt các áo dài trong, thắt lưng bằng vải, và băng quấn đầu cho các con trai A-rôn để họ được tôn kính và tươm tất. 41 Mặc các trang phục đó cho A-rôn, anh con, và các con trai người. Đổ dầu ô-liu trên đầu để phong chức tế lễ cho họ. Khiến họ thuộc về ta để làm thầy tế lễ cho ta.
42 May cho họ các trang phục ngắn để che thân họ từ thắt lưng cho đến đùi. 43 A-rôn và các con trai người phải mặc những trang phục lót nầy khi họ vào Lều Họp hay bất cứ lúc nào họ đến gần bàn thờ để thi hành chức thầy tế lễ trong Nơi Thánh. Không mặc các y phục ấy, tức là họ phạm tội và sẽ chết. Đây là luật định mãi mãi từ nay về sau cho A-rôn và con cháu người.”
Các em Chúa Giê-xu không chịu tin
7 Sau đó, Chúa Giê-xu đi quanh miền Ga-li-lê. Ngài tránh miền Giu-đia vì các người Do-thái ở đó tìm cách giết Ngài. 2 Lễ Lều Tạm của dân Do-thái gần đến, 3 nên các em Ngài bảo, “Anh hãy rời vùng nầy, đi đến miền Giu-đia, để cho các người theo anh ở đó cũng được thấy những phép lạ anh làm nữa. 4 Ai muốn được người ta biết đến thì không giấu diếm điều mình làm. Vì anh đã làm những điều lạ lùng nầy thì phải cho thiên hạ biết đến anh chứ!” 5 Ngay đến chính các em Ngài cũng không tin Ngài. 6 Chúa Giê-xu bảo họ, “Thì giờ chưa tiện cho anh, nhưng với các em thì giờ lúc nào cũng thuận tiện. 7 Thế gian không thể ghét các em được, nhưng thế gian ghét anh vì anh chỉ ra những điều ác họ làm. 8 Thôi các em lên dự lễ đi. Anh không đi lần nầy đâu vì thì giờ chưa tiện cho anh.” 9 Nói xong, Ngài ở nán lại miền Ga-li-lê.
10 Tuy nhiên, sau khi các em Ngài đã đi lên dự lễ thì Chúa Giê-xu cũng lên nhưng đi kín đáo, không để ai thấy. 11 Các người Do-thái đi tìm Ngài trong kỳ lễ hỏi rằng, “Ông ta đâu rồi?”
12 Có nhiều lời xầm xì trong quần chúng về Ngài. Người thì nói, “Ông ta là người tốt.” Kẻ khác thì bảo, “Không, ông ta bịp dân chúng đó thôi.” 13 Nhưng không ai dám bàn tán công khai về Ngài vì họ sợ các người Do-thái.
Chúa Giê-xu dạy trong kỳ lễ ở Giê-ru-sa-lem
14 Giữa kỳ lễ [a], Chúa Giê-xu đi vào đền thờ giảng dạy. 15 Các người Do-thái rất kinh ngạc và hỏi nhau, “Làm sao mà người nầy biết quá nhiều như thế, trong khi chưa bao giờ đặt chân đến trường?”
16 Chúa Giê-xu đáp, “Những điều ta dạy không phải tự ta mà do Đấng đã sai ta đến. 17 Ai làm theo ý muốn Thượng Đế sẽ biết rằng điều ta dạy là do Thượng Đế hay tự ý ta. 18 Ai dạy theo ý riêng thì chỉ tìm vinh dự cho mình thôi. Nhưng ai tìm vinh dự cho Đấng sai mình đến là người ngay thật, trong người ấy không có điều gì giả dối. 19 Mô-se đã ban hành Luật Lệ cho các ngươi nhưng không ai trong các ngươi tôn trọng Luật Lệ. Tại sao các ngươi tìm cách giết ta?”
20 Họ trả lời, “Ông bị quỉ ám. Ai tìm cách giết ông?”
21 Chúa Giê-xu đáp, “Ta làm một phép lạ mà các ngươi đều kinh ngạc. 22 Mô-se ban cho các ngươi luật về phép cắt dương bì. Thật ra không phải Mô-se cho các ngươi luật ấy mà là các tổ tiên. Cho nên các ngươi cắt dương bì trong ngày Sa-bát. 23 Nếu các ngươi làm lễ cắt dương bì trong ngày Sa-bát để khỏi vi phạm luật lệ Mô-se thì tại sao các ngươi bất bình khi ta khiến một bệnh nhân hoàn toàn bình phục trong ngày Sa-bát? 24 Đừng phán đoán theo bề ngoài mà hãy phán đoán cho đúng.”
Chúa Giê-xu có phải là Đấng Cứu Thế không?
25 Một vài người ở Giê-ru-sa-lem hỏi, “Đây có phải là người mà họ tìm cách giết không? 26 Thế sao ông ta công khai giảng dạy mà chẳng ai làm gì cả? Không chừng các nhà lãnh đạo biết chắc rằng ông ta là Đấng Cứu Thế. 27 Khi Đấng Cứu Thế đến sẽ không ai biết Ngài từ đâu đến, chứ còn người nầy thì chúng ta biết rõ gốc gác.”
28 Đang khi dạy trong đền thờ thì Chúa Giê-xu kêu lên, “Các ngươi biết ta và cũng biết ta từ đâu đến. Ta không tự lấy quyền mình mà đến. Đấng đã sai ta đến là chân thật. Các ngươi không biết Ngài 29 nhưng ta biết Ngài, vì ta từ Ngài mà đến và Ngài là Đấng đã sai ta.”
30 Khi nghe như thế thì dân chúng muốn bắt Chúa Giê-xu nhưng không ai dám ra tay vì thời điểm của Ngài chưa đến. 31 Tuy nhiên có nhiều người trong quần chúng tin Ngài. Họ hỏi nhau, “Khi Đấng Cứu Thế đến, liệu Ngài có làm nhiều phép lạ hơn người nầy không?”
Các nhà lãnh đạo Do-thái tìm cách bắt Chúa Giê-xu
32 Người Pha-ri-xi nghe quần chúng xì xào như thế về Chúa Giê-xu, liền cùng các giới trưởng tế sai một số lính gác đền thờ đến bắt Ngài. 33 Chúa Giê-xu bảo, “Ta còn ở với các ngươi một thời gian ngắn nữa, rồi ta sẽ trở về cùng Đấng đã sai ta. 34 Các ngươi sẽ tìm ta nhưng không gặp được, vì các ngươi không thể đến được nơi ta ở.”
35 Người Do-thái hỏi nhau, “Ông nầy đi đâu mà chúng ta không tìm được? Chẳng lẽ ông ta đi đến các thành phố Hi-lạp có dân ta cư ngụ để giảng cho người Hi-lạp sao? 36 Ông ta bảo, ‘Các ngươi sẽ tìm ta nhưng không tìm được và rằng các ngươi không thể đến nơi ta ở.’ Như thế nghĩa là gì?”
Chúa Giê-xu giảng về Thánh Linh
37 Vào ngày cuối cùng và cũng là ngày quan trọng nhất của kỳ lễ, Chúa Giê-xu đứng dậy kêu lên rằng, “Ai khát hãy đến cùng ta mà uống. 38 Người nào tin ta thì suối nước sống sẽ tuôn tràn từ tấm lòng người ấy như Thánh Kinh đã viết.” 39 Ngài muốn nói đến Thánh Linh. Lúc bấy giờ Thánh Linh chưa đến trên ai vì Chúa Giê-xu chưa được hiển vinh. Nhưng sau đó những người tin Ngài sẽ nhận Thánh Linh.
Dân chúng bàn cãi về Chúa Giê-xu
40 Khi quần chúng nghe Ngài nói như thế thì một số người bảo, “Người nầy quả thật là nhà tiên tri! [b]”
41 Kẻ khác lại nói, “Ông ta là Đấng Cứu Thế!” Nhưng có người cãi, “Đấng Cứu Thế mà xuất thân từ Ga-li-lê à? 42 Thánh Kinh chép rằng Đấng Cứu Thế sẽ thuộc dòng vua Đa-vít và xuất thân ở Bết-lê-hem, thị trấn mà vua Đa-vít đã cư ngụ.” 43 Cho nên dân chúng bất đồng ý với nhau về Ngài.
44 Có vài người trong vòng họ muốn bắt Ngài, tuy nhiên không ai dám đụng đến Ngài.
Các lãnh tụ Do-thái không chịu tin
45 Khi các lính gác đền thờ trở về thì các giới trưởng tế và người Pha-ri-xi hỏi, “Sao mấy anh không giải ông ta đến đây?”
46 Toán lính trả lời, “Chưa hề có ai ăn nói như người nầy!”
47 Mấy người Pha-ri-xi bảo, “Chắc mấy anh cũng bị ông Giê-xu gạt gẫm rồi chứ gì! 48 Hay là có ai trong giới lãnh đạo hoặc người Pha-ri-xi tin theo ông ta rồi sao? Không thể được! 49 Đám dân nầy chẳng biết gì về luật lệ cả, thật đáng bị Thượng Đế nguyền rủa!”
50 Ni-cô-đem, thuộc nhóm Pha-ri-xi, là người trước đây đã đến thăm Chúa Giê-xu, có mặt [c] ở đó. Ông lên tiếng, 51 “Luật chúng ta không thể buộc tội ai trước khi nghe người ấy tự bênh vực để biết những gì người ấy làm.”
52 Họ đáp, “Vậy ra ông cũng xuất thân từ Ga-li-lê à! Ông hãy nghiên cứu Thánh Kinh đi, sẽ thấy không có nhà tiên tri nào từ Ga-li-lê ra cả.”
53 Rồi ai về nhà nấy.
Sự khôn ngoan vô cùng quan trọng
4 Các con ơi, hãy nghe lời dạy dỗ của cha;
hãy chú ý để hiểu biết.
2 Lời ta nói ra đều tốt lành,
cho nên chớ quên điều ta dạy con.
3 Khi ta còn là con trong nhà cha ta,
ta như đứa con duy nhất của mẹ ta,
4 Cha ta thường dạy ta như sau,
“Hãy hết lòng nghe lời dạy của cha.
Vâng theo lời chỉ dạy của cha thì con sẽ sống.
5 Hãy tìm kiếm sự khôn ngoan và trí hiểu biết.
Đừng quên hay bỏ qua lời ta dạy.
6 Đừng lìa xa sự khôn ngoan thì nó sẽ chăm sóc con.
Yêu mến nó thì nó sẽ giữ con an toàn.
7 Sự khôn ngoan vô cùng quan trọng;
cho nên hãy cố gắng có được sự khôn ngoan.
Dù tốn kém bao nhiêu
cũng hãy ráng tìm được sự thông hiểu.
8 Hãy quí trọng sự khôn ngoan, nó sẽ khiến con được cao trọng;
nắm giữ nó thì nó sẽ mang vinh dự đến cho con.
9 Nó sẽ như hoa trên tóc con,
như mão triều rực rỡ trên đầu con.”
10 Con ơi, hãy lắng nghe và chấp nhận điều cha nói,
thì con sẽ sống lâu.
11 Cha dạy con đi theo đường khôn ngoan,
cha dẫn con đi trên lối ngay thẳng.
12 Khi con đi, sẽ không có gì kềm giữ con lại;
lúc con chạy, con sẽ không bị vấp ngã.
13 Hãy luôn luôn ghi nhớ điều con đã được dạy,
đừng quên lãng.
Hãy giữ lấy điều con đã học
vì nó vô cùng quan trọng cho đời con.
14 Đừng bước vào con đường kẻ ác;
cũng đừng làm như chúng.
15 Hãy tránh xa lối ấy, chớ chạy theo chúng.
Hãy tránh xa khỏi đường ấy
và tiếp tục đi đường con.
16 Chúng không thể ngủ yên được
cho đến khi làm cho người khác vấp ngã.
Chúng không nghỉ ngơi được
cho đến khi đã làm hại người khác.
17 Chúng ăn nuốt điều ác và điều hung bạo
như thể ăn bánh và uống rượu.
18 Đường lối của người công chính như ánh bình minh,
càng ngày càng rực sáng cho đến giữa trưa.
19 Nhưng con đường kẻ ác rất tăm tối;
chúng không biết tại sao mình vấp ngã.
20 Con ơi, hãy lưu ý lời cha,
nghe cho kỹ điều cha nói đây.
21 Đừng bao giờ bỏ qua lời cha;
hãy ghi tạc nó trong trí con.
22 Vì chúng là sự sống cho ai tìm được;
chúng mang sức khoẻ cho cả thân thể.
23 Trên hết mọi việc hãy giữ tấm lòng của con,
vì sự sống phát xuất từ đó [a].
24 Chớ dùng miệng lưỡi mình mà nói dối;
Hãy lấy môi gian dối ra khỏi con.
25 Mắt con hãy nhìn thẳng phía trước,
hãy nhìn thẳng trước mặt.
26 Hãy thận trọng điều con làm,
thì các bước đi của con sẽ vững chắc.
27 Chớ quay qua bên phải hay bên trái;
hãy tránh xa con đường độc ác.
Phước lành đến nhờ đức tin
3 Các anh chị em là người ở Ga-la-ti đã được trình bày rõ ràng trước mắt về sự chết của Chúa Cứu Thế trên thập tự giá, nhưng anh chị em lại quá dại dột để người khác lừa gạt mình. 2 Hãy cho tôi biết một điều: Anh chị em nhận lãnh Thánh Linh cách nào? Có phải nhờ vâng giữ luật pháp không?—Không! Anh chị em nhận Thánh Linh là nhờ nghe và tiếp nhận Tin Mừng. 3 Anh chị em đã bắt đầu cuộc đời mới trong Chúa Cứu Thế nhờ Thánh Linh rồi bây giờ lại nhờ sức riêng để hoàn tất công tác ấy. Thật là dại! 4 Phải chăng những sự khốn khổ mà anh chị em đã chịu hóa ra vô ích sao? Tôi hi vọng là không! 5 Có phải nhờ vâng giữ luật pháp mà Thượng Đế ban Thánh Linh và thực hiện nhiều phép lạ trong vòng anh chị em không? Không phải. Ngài thực hiện những việc ấy là vì anh chị em nghe và nhận.
6 Thánh Kinh cũng đã nói tương tự về Áp-ra-ham như sau, “Áp-ra-ham tin Thượng Đế, Ngài chấp nhận đức tin của ông và đức tin ấy khiến ông trở thành công chính trước mặt Thượng Đế.” [a] 7 Cho nên anh chị em phải biết rằng những người có đức tin là con cháu thật của Áp-ra-ham. 8 Thánh Kinh cũng đã thấy trước việc tương lai và nói rằng Thượng Đế sẽ khiến những người không phải Do-thái trở nên công chính qua đức tin của họ. Tin Mừng nầy đã được loan báo trước cho Áp-ra-ham rằng, “Mọi dân tộc sẽ nhờ ngươi mà được hưởng ân phúc.” [b] 9 Cho nên hễ ai tin đều được ân phúc như Áp-ra-ham, là người có niềm tin. 10 Còn những người mong được trở nên công chính bằng cách vâng giữ luật pháp thì bị nguyền rủa như Thánh Kinh viết, “Người nào không bền lòng vâng giữ mọi điều đã được ghi chép trong Sách Luật sẽ bị nguyền rủa.” [c] 11 Như thế rõ ràng là không ai có thể trở thành công chính trước mặt Thượng Đế qua luật pháp vì Thánh Kinh viết, “Những ai trở nên công chính nhờ đức tin sẽ sống.” 12 Luật pháp không dựa trên đức tin. Luật pháp chỉ nói phương cách duy nhất để con người tìm được sự sống qua luật pháp là vâng giữ các điều luật ấy. [d] 13 Chúa Cứu Thế đã giải thoát chúng ta khỏi sự nguyền rủa của luật pháp. Ngài đổi địa vị thay cho chúng ta và tự đặt mình dưới sự nguyền rủa ấy. Như Thánh Kinh viết, “Người nào bị treo lên cây thật đáng rủa.” [e] 14 Chúa Cứu Thế đã làm điều ấy để phúc lành hứa cho Áp-ra-ham sẽ được thực hiện qua Chúa Cứu Thế cho những người không phải Do-thái; do đó nhờ đức tin chúng ta sẽ nhận được Thánh Linh mà Thượng Đế đã hứa.
Luật pháp và lời hứa
15 Thưa anh chị em, chúng ta hãy suy nghĩ theo cách loài người đi: Một khi di chúc đã thành hiệu lực thì không ai có thể hủy bỏ hay thêm bớt điều gì. 16 Thượng Đế đã hứa với Áp-ra-ham và dòng dõi ông [f]. Ngài không nói, “và cho các dòng dõi ngươi” để chỉ về nhiều người nhưng nói “và cho dòng dõi ngươi” để chỉ về một người mà thôi, người ấy là Chúa Cứu Thế. 17 Đây là điều tôi muốn nói: Thượng Đế đã lập giao ước với Áp-ra-ham theo đúng thể thức ấy. Còn luật pháp thì mãi đến bốn trăm ba mươi năm sau mới có nên không thể thay đổi giao ước ấy hoặc hủy bỏ lời hứa mà Thượng Đế dành cho Áp-ra-ham được. 18 Nếu chúng ta có thể hưởng gia tài qua luật pháp thì không cần lời hứa nữa. Nhưng không phải thế, vì Thượng Đế đã ban phúc lành nhiều trên Áp-ra-ham qua lời hứa mà Ngài đã lập.
19 Thế thì mục đích của luật pháp là gì? Luật pháp được đặt ra vì những vi phạm của con người. Luật pháp được kéo dài cho đến khi một người thuộc dòng dõi ấy tức Đấng đã được hứa từ trước, xuất hiện. Luật pháp được các thiên sứ trao cho Mô-se, như người trung gian để truyền lại cho dân chúng. 20 Nhưng nếu chỉ có một phía thì không cần người trung gian nữa vì chỉ có một mình Thượng Đế mà thôi.
Mục đích của Luật pháp Mô-se
21 Như thế có phải luật pháp nghịch lại với lời hứa của Thượng Đế không? Không phải. Giá như có luật nào ban cho con người mà lại có khả năng làm cho sống thì đúng là con người được nên công chính nhờ luật pháp. 22 Trái lại, Thánh Kinh cho thấy cả thế gian bị tội lỗi trói buộc để hễ ai đặt niềm tin trong Chúa Cứu Thế đều nhận được lời hứa.
23 Trước khi đức tin đến, tất cả chúng ta đều bị luật pháp giam giữ cho tới khi đức tin được bày tỏ ra. 24 Nói khác đi, luật pháp là người giám hộ dẫn chúng ta đến cùng Chúa Cứu Thế để chúng ta trở nên công chính trước mặt Thượng Đế qua đức tin. 25 Hiện nay đức tin đã đến nên chúng ta không còn sống dưới quyền người giám hộ nữa.
26 Qua đức tin trong Chúa Cứu Thế, anh chị em trở nên con cái Thượng Đế vì anh chị em đều đã chịu báp-têm trong Chúa Cứu Thế nên được mặc lấy chính mình Ngài. 27-28 Trong Chúa Cứu Thế không còn phân biệt người Do-thái, Hi-lạp, tôi mọi, tự do, đàn ông hay đàn bà gì cả. Tất cả chúng ta đều là một trong Ngài. 29 Vì anh chị em thuộc về Chúa Cứu Thế cho nên cũng thuộc dòng dõi Áp-ra-ham. Do đó, anh chị em sẽ hưởng mọi phúc lành nhờ lời hứa mà Thượng Đế đã lập cùng Áp-ra-ham.
Copyright © 2010 by World Bible Translation Center