M’Cheyne Bible Reading Plan
11 Khi Rô-bô-am đến Giê-ru-sa-lem ông liền tập họp một trăm tám mươi ngàn binh sĩ thiện chiến nhất của Giu-đa và Bên-gia-min. Ông định đánh Ít-ra-en để giành lại nước cho mình. 2 Nhưng CHÚA phán cùng Sê-mai-gia, người của Thượng Đế rằng, 3 “Hãy nói cùng Rô-bô-am, con trai Sô-lô-môn, vua Giu-đa, và cùng toàn dân Ít-ra-en đang sống trong Giu-đa và Bên-gia-min rằng, 4 ‘CHÚA phán, các ngươi không nên đánh giặc cùng anh em mình. Ai nấy hãy về nhà đi vì chính ta gây ra chuyện nầy.’” Vậy họ vâng theo lời CHÚA và quay về, không đánh Giê-rô-bô-am nữa.
Rô-bô-am củng cố Giu-đa
5 Rô-bô-am đóng đô ở Giê-ru-sa-lem và xây các thành kiên cố trong Giu-đa để bảo vệ vùng ấy. 6 Ông củng cố các thành Bết-lê-hem, Ê-tam, Tê-cô-a, 7 Bết-sua, Xô-cô, A-đu-lam, 8 Gát, Ma-rê-sa, Xíp, 9 A-đô-ra-im, La-kích, A-xê-ka, 10 Xô-ra, Ai-gia-lôn, và Hếp-rôn. Đó là các thành có vách kiên cố ở Giu-đa và Bên-gia-min. 11 Sau khi vua đã củng cố các thành đó rồi thì ông đặt các viên chỉ huy và các kho tiếp liệu thực phẩm, dầu, và rượu trong các thành đó. 12 Ngoài ra Rô-bô-am cũng đặt các khiên và giáo trong tất cả các thành phố để bảo vệ chúng. Rô-bô-am kiểm soát dân cư Giu-đa và Bên-gia-min.
13 Các thầy tế lễ và người Lê-vi từ khắp Ít-ra-en đều theo Rô-bô-am. 14 Thậm chí những người Lê-vi cũng phải bỏ đồng ruộng và tài sản mình và đến Giu-đa cùng Giê-ru-sa-lem vì Giê-rô-bô-am và các con trai ông không cho họ hành chức tế lễ cho CHÚA.
15 Giê-rô-bô-am tự chọn các thầy tế lễ cho những nơi thờ phụng và cho các hình tượng dê và bò con mà ông đã làm. 16 Có những người từ khắp Ít-ra-en muốn vâng lời CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en. Vì thế họ cùng những người Lê-vi đến Giê-ru-sa-lem để dâng sinh tế cho CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên mình. 17 Họ củng cố đất nước cho Giu-đa và họ ủng hộ Rô-bô-am, con trai Sô-lô-môn trong ba năm. Trong thời gian đó họ sống y như Đa-vít và Sô-lô-môn đã sống.
Gia đình Rô-bô-am
18 Rô-bô-am lấy Ma-ha-lát, con gái Giê-ri-mốt và A-bi-hai. Giê-ri-mốt là con trai Đa-vít, và A-bi-hai là con gái Ê-li-áp, con trai Gie-xê. 19 Ma-ha-lát sinh cho Rô-bô-am các con trai sau đây: Giê-út, Sê-ma-ria, và Xa-ham. 20 Sau đó Rô-bô-am lấy Ma-a-ca, cháu gái [a] của Áp-xa-lôm. Nàng sinh cho Rô-bô-am các con sau đây: A-bi-gia, Át-tai, Xi-xa, và Sê-lô-mít. 21 Rô-bô-am yêu Ma-a-ca hơn các người vợ và hầu thiếp khác. Rô-bô-am có mười tám người vợ và sáu mươi hầu thiếp. Ông sinh hai mươi tám con trai và sáu mươi con gái.
22 Rô-bô-am chọn A-bi-gia, con trai Ma-a-ca, làm lãnh đạo các anh em mình vì ông định cho A-bi-gia kế vị mình. 23 Rô-bô-am hành động rất khôn ngoan. Ông phân tán các con mình ra khắp các nơi trong Giu-đa và Bên-gia-min, đặt chúng ở các thành có vách kiên cố. Ông cung cấp cho chúng nó đầy đủ và kiếm vợ cho chúng nó.
Si-sắc, vua Ai-cập tấn công Giê-ru-sa-lem
12 Sau khi nước của Rô-bô-am được thiết lập và vững chãi thì ông và dân Giu-đa [b] không vâng theo lời dạy của CHÚA nữa.
2 Vào năm thứ năm triều vua Rô-bô-am thì Si-sắc, vua Ai-cập kéo lên tấn công Giê-ru-sa-lem vì Rô-bô-am không trung thành cùng CHÚA. 3 Si-sắc có một ngàn hai trăm quân xa và sáu mươi ngàn lính cỡi ngựa. Ông cũng kéo các binh lính từ Ly-bi, Su-kít, và Cu-si lên từ Ai-cập với mình, đông đến nỗi không thể đếm được. 4 Si-sắc chiếm các thành có vách kiên cố của Giu-đa và kéo đến sát Giê-ru-sa-lem.
5 Sau đó Sê-mai-gia, nhà tiên tri, đến gặp Rô-bô-am và các lãnh tụ của Giu-đa đã tập họp tại Giê-ru-sa-lem vì họ sợ Si-sắc. Sê-mai-gia bảo họ, “CHÚA phán như sau: ‘Các ngươi đã lìa bỏ ta cho nên ta cũng bỏ mặc để các ngươi đối đầu với Si-sắc một mình.’”
6 Sau đó các lãnh tụ Giu-đa và Rô-bô-am hối hận về những điều mình đã làm và bảo, “CHÚA hành động rất phải.”
7 Khi CHÚA thấy họ hối hận về hành động mình thì Ngài phán cùng Sê-mai-gia, “Vua và các lãnh tụ đã hối hận cho nên ta sẽ không tiêu diệt họ mà sẽ sớm giải cứu. Ta sẽ không dùng Si-sắc để trừng phạt Giê-ru-sa-lem trong cơn giận ta nữa. 8 Nhưng dân cư Giê-ru-sa-lem sẽ làm tôi mọi cho Si-sắc để họ biết rằng phục vụ ta khác hơn phục vụ vua các dân tộc khác.”
9 Si-sắc, vua Ai-cập, tấn công Giê-ru-sa-lem và lấy tất cả những vật quí giá trong đền thờ CHÚA và cung điện vua. Ông lấy mọi thứ, luôn cả các khiên vàng mà Sô-lô-môn đã làm. 10 Vì vậy Rô-bô-am cho làm các khiên bằng đồng thế vào và giao cho các viên chỉ huy của toán phòng vệ cửa cung điện vua canh giữ. 11 Hễ khi nào vua đi vào đền thờ CHÚA thì các lính phòng vệ đi theo vua mang khiên theo với mình. Sau đó họ mang khiên đi cất.
12 Khi thấy Rô-bô-am hối hận về hành vi của mình thì CHÚA nén giận và không hoàn toàn tiêu diệt ông. Trong Giu-đa vẫn còn điều tốt.
13 Vua Rô-bô-am củng cố địa vị mình ở Giê-ru-sa-lem. Khi lên ngôi vua ông được bốn mươi mốt tuổi và trị vì ở Giê-ru-sa-lem mười bảy năm. Giê-ru-sa-lem là thành mà CHÚA chọn từ trong các chi tộc Ít-ra-en để làm nơi thờ phụng Ngài. Mẹ của Rô-bô-am là Na-a-ma, gốc người Am-môn. 14 Rô-bô-am làm điều ác, không hết lòng tìm kiếm CHÚA.
15 Những điều Rô-bô-am làm trong khi trị vì từ đầu đến cuối đều được ghi vào sử ký của Sê-mai-gia, nhà tiên tri, và của Y-đô, người tiên kiến, nơi mục gia phổ. Trong đời hai vua trị vì, giữa Rô-bô-am và Giê-rô-bô-am đánh giặc với nhau luôn luôn. 16 Rô-bô-am qua đời và được chôn ở Giê-ru-sa-lem. A-bi-gia, con trai ông lên nối ngôi.
Thư gởi cho hội thánh Ê-phê-sô
2 “Hãy viết cho thiên sứ của hội thánh Ê-phê-sô như sau:
Đấng cầm bảy ngôi sao trong tay phải và đi giữa bảy chân đèn vàng phán: 2 Ta biết điều ngươi làm, ngươi chịu khó và không bao giờ bỏ cuộc. Ta biết ngươi không dung túng những kẻ ác. Ngươi đã thử nghiệm những kẻ mạo xưng là sứ đồ mà thật ra không phải, ngươi biết chúng nó nói dối. 3 Ngươi kiên nhẫn và chịu khổ vì danh ta, không bỏ cuộc.
4 Nhưng có điều ta không bằng lòng về ngươi: Ngươi đã bỏ tình yêu buổi đầu. 5 Cho nên hãy nhớ lại ngươi sa sút từ đâu. Hãy ăn năn, trở lại như lúc đầu vì nếu ngươi không thay đổi, ta sẽ đến rút chân đèn ngươi ra khỏi chỗ nó. 6 Nhưng ngươi có điểm đáng khen: Ngươi ghét việc bọn Ni-cô-la [a] làm như ta ghét vậy.
7 Ai có tai nghe, hãy lắng nghe lời Thánh Linh phán cùng các hội thánh. Kẻ nào thắng ta sẽ ban cho quyền ăn trái cây sự sống trong vườn của Thượng Đế.”
Thư gởi cho hội thánh Xi-miệc-nơ
8 “Hãy viết cho hội thánh Xi-miệc-nơ như sau:
Đấng Đầu tiên và Cuối cùng, Đấng đã chết và sống lại, phán: 9 Ta biết những khốn khổ ngươi, ngươi tuy nghèo nhưng thật ra là giàu! Ta biết những điều kẻ khác nói xấu ngươi. Chúng tự xưng là người Do-thái nhưng không phải Do-thái thật. Chúng thuộc hội [b] của quỉ Sa-tăng. 10 Đừng sợ những nỗi khổ ngươi sắp chịu. Ta cho ngươi biết, ma quỉ sẽ ném một số trong các ngươi vào ngục để thử ngươi. Ngươi sẽ chịu khổ trong mười ngày. Nhưng hãy trung tín cho đến chết, rồi ta sẽ cho ngươi mão triều của sự sống.
11 Ai có tai nghe, hãy lắng nghe lời Thánh Linh phán cùng các hội thánh. Kẻ nào thắng sẽ không bị hại gì về cái chết thứ nhì.”
Thư gởi cho hội thánh Bẹt-găm
12 “Hãy viết cho thiên sứ của hội thánh Bẹt-găm như sau:
Đấng có gươm hai lưỡi sắc bén phán như sau: 13 Ta biết nơi ngươi ở, đó là ngôi của quỉ Sa-tăng. Nhưng ngươi chân thật đối với ta. Ngươi không chối bỏ đức tin nơi ta dù lúc An-ti-ba, nhân chứng trung thành [c] của ta bị giết ở thành ngươi, là nơi Sa-tăng ở.
14 Nhưng có điều ta không bằng lòng về ngươi: Trong ngươi có những kẻ đi theo lời dạy của Ba-la-am là người dạy Ba-lác xui cho dân Ít-ra-en phạm tội bằng cách ăn của cúng thần tượng và phạm tội nhục dục. 15 Trong ngươi cũng có mấy người nghe theo lời dạy của bọn Ni-cô-la. 16 Cho nên hãy ăn năn hối hận đi vì nếu không ta sẽ vội đến và lấy gươm của miệng ta mà giao chiến với chúng nó.
17 Ai có tai nghe, hãy lắng nghe lời Thánh Linh phán cùng các hội thánh.
Kẻ nào thắng ta sẽ cho ma-na kín giấu. Ta sẽ cho mỗi người một viên sỏi trắng có khắc một tên mới. Ngoài kẻ nhận viên sỏi ra, không ai biết được tên ấy.”
Thư gởi cho hội thánh Thi-a-ti-rơ
18 “Hãy viết cho thiên sứ của hội thánh Thi-a-ti-rơ như sau:
Con Thượng Đế, Đấng có mắt rực như lửa và chân như đồng sáng phán: 19 Ta biết điều ngươi làm. Ta biết tình yêu, đức tin, tinh thần phục vụ và lòng nhẫn nhục của ngươi. Ta biết hiện nay ngươi đang làm nhiều hơn lúc đầu. 20 Nhưng có điều ta không bằng lòng về ngươi: Ngươi dung túng Giê-sa-bên, người đàn bà gieo rắc đạo lạc. Nó mạo xưng là nữ tiên tri [d] nhưng các lời dạy dỗ của nó đưa dân ta vào tội nhục dục và ăn uống đồ cúng thần tượng. 21 Ta đã cho nó thì giờ để ăn năn, quay khỏi tội lỗi nhưng nó không chịu. 22 Cho nên ta sẽ ném nó trên giường đau khổ. Những kẻ phạm tội nhục dục với nó cũng sẽ khốn khổ nếu chúng không ăn năn, từ bỏ tội lỗi của nó. 23 Ta cũng sẽ giết những kẻ theo nó. Rồi mọi hội thánh sẽ biết rằng ta là Đấng dò xét tâm trí loài người và tùy công việc làm của mỗi người mà báo lại.
24 Nhưng ở Thi-a-ti-rơ có những người không theo lời dạy ấy và không học đòi điều mà một số người gọi là bí mật sâu kín của Sa-tăng. Ta cho ngươi biết, ta sẽ không chất thêm gánh nặng trên ngươi. 25 Miễn là ngươi giữ vững điều mình có cho tới khi ta đến.
26 Ai thắng và bền lòng vâng phục ta đến cuối cùng ta sẽ ban cho quyền cai quản mọi dân tộc. 27 Người ấy sẽ cai trị chúng nó bằng một cây roi sắt, đập bể chúng ra tan tành như bình gốm. 28 Đó là quyền ta nhận từ nơi Cha. Ta cũng sẽ cho người ấy ngôi sao mai. 29 Ai có tai nghe, hãy lắng nghe lời Thánh Linh phán cùng các hội thánh.”
Giê-ru-sa-lem sẽ bị trừng phạt
3 Khốn cho thành Giê-ru-sa-lem
độc ác, ương ngạnh,
là thành tự hại dân cư mình.
2 Nó không chịu vâng lời ai;
không ai dạy nó làm điều phải được.
Nó không tin cậy CHÚA;
cũng chẳng thờ phụng Thượng Đế mình.
3 Các viên chức nó như sư tử gầm thét.
Các quan quyền nó như chó sói đói hung hăng
tấn công vào chiều tà,
và đến sáng hôm sau
chẳng chừa lại món gì.
4 Các nhà tiên tri nó kiêu căng;
họ là những kẻ không thể tin cậy được.
Các thầy tế lễ nó không tôn kính
những vật thánh;
Cố tình xuyên tạc lời giáo huấn
của Thượng-Đế.
5 Nhưng CHÚA là Đấng công bằng,
Ngài đang ngự trong thành đó.
Ngài không làm điều quấy.
Mỗi sáng Ngài cai trị dân chúng
một cách công minh;
Ngày nào CHÚA cũng xét xử công bằng.
Nhưng kẻ ác không biết xấu hổ
về điều mình làm.
6 Ta đã tiêu diệt các dân;
các tháp canh nó đã bị sụp đổ rồi.
Ta khiến cho phố xá nó vắng tanh
để không còn ai đi lại nơi đó nữa.
Các thành phố của chúng nó điêu tàn;
không còn ai ở.
7 Ta nói điều nầy để các ngươi
kính nể ta và nghe lời dạy dỗ của ta.
Nếu các ngươi học bài học ấy
thì các ngươi sẽ không bị tiêu diệt.
Nhưng chúng vẫn cứ hăm hở
làm chuyện ác.
8 CHÚA phán, “Hãy chờ đó.
Một ngày nào ta sẽ đứng lên
làm nhân chứng.
Ta đã quyết định thu gom các dân
và tập họp các nước.
Ta sẽ trút cơn giận ta trên chúng nó,
trút hết cơn thịnh nộ ta.
Cơn thịnh nộ ta sẽ như lửa đốt cháy cả thế gian.
Một ngày mới cho dân Chúa
9 Rồi ta sẽ khiến các dân tộc khác nói ngôn ngữ rõ ràng,
và kêu cầu danh CHÚA.
Chúng sẽ cùng nhau thờ phụng ta,
vai sánh vai như một đoàn dân.
10 Dân chúng sẽ đổ về từ nguồn sông Nin;
dân tản mác của ta
sẽ mang lễ vật đến cho ta.
11 Hỡi Giê-ru-sa-lem,
ngươi sẽ không còn bị xấu hổ
về những điều ngươi làm nghịch lại ta,
vì ta sẽ loại bỏ giữa ngươi
những kẻ huênh hoang;
sẽ chẳng còn có kẻ kiêu căng nữa
trên núi thánh [a] ta.
12 Nhưng ta sẽ để lại trong thành ngươi
những kẻ hiền từ và khiêm nhường,
tất cả đều sẽ tin cậy CHÚA.
13 Những kẻ còn sống sót trong Ít-ra-en
sẽ không làm quấy và nói dối nữa;
sẽ không dùng miệng mình gạt dân chúng.
Họ sẽ ăn ngủ bình yên,
Không còn ai làm cho họ sợ hãi.”
Bài ca hân hoan
14 Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy hát lên.
Ít-ra-en ơi, hãy lớn tiếng reo vui!
Giê-ru-sa-lem ơi, hãy hớn hở
và hết lòng mừng rỡ.
15 CHÚA đã thôi trừng phạt ngươi;
Ngài đã đuổi kẻ thù ngươi đi rồi.
CHÚA là Vua của Ít-ra-en, ở cùng ngươi.
Ngươi sẽ không còn lo sợ bị hãm hại nữa.
16 Trong ngày đó,
Giê-ru-sa-lem sẽ được khuyên bảo,
“Hỡi thành Giê-ru-sa-lem, đừng sợ.
Đừng buông xuôi.
17 CHÚA là Thượng-Đế đang ở cùng ngươi;
Đấng Toàn Năng sẽ giải cứu ngươi.
Ngài sẽ vui về ngươi.
Ngươi sẽ an nghỉ trong tình yêu Ngài;
Ngài sẽ hát và hớn hở về ngươi.”
18 “Ta sẽ cất sự buồn rầu đã dành cho ngươi,
là điều khiến ngươi xấu hổ.
19 Lúc đó ta sẽ trừng phạt
những kẻ đã làm hại ngươi.
Ta sẽ giải cứu dân ta là kẻ què quặt,
và thu nhóm dân ta
là kẻ đã bị ruồng rẫy.
Ta sẽ ban cho họ lời ca ngợi
và sự tôn trọng
ở những nơi nào họ đã bị làm nhục.
20 Lúc đó ta sẽ triệu tập ngươi lại;
và sẽ mang ngươi trở về nhà.
Ta sẽ ban cho ngươi những lời ca tụng
và sự tôn trọng từ khắp mọi dân
khi ta khiến ngươi sung túc trở lại,
trước mắt các dân,” CHÚA phán vậy.
Đấng Cứu Thế đến trần gian
1 Ban đầu có Thiên Ngôn [a]. Thiên Ngôn ở với Thượng Đế và Thiên Ngôn là Thượng Đế. 2 Ngài ở với Thượng Đế từ đầu. 3 Mọi vật đều do Ngài tạo dựng. Không có vật gì mà không do Ngài tạo ra. 4 Trong Ngài có nguồn sống, và chính nguồn sống ấy là ánh sáng cho nhân loại. 5 Ánh sáng chiếu trong bóng tối nhưng bóng tối không dập tắt [b] được ánh sáng.
6 Có một người được Thượng Đế sai đến tên là Giăng. 7 Ông đến làm chứng về ánh sáng, để nhờ ông mà mọi người có thể tin. 8 Giăng không phải là ánh sáng nhưng ông đến để làm chứng cho dân chúng biết về ánh sáng. 9 Ánh sáng thật đã đến trần gian chiếu sáng cho mọi người.
10 Thiên Ngôn ở trong thế gian. Thế gian do Ngài sáng tạo, nhưng lại không nhận biết Ngài. 11 Ngài đến trong thế giới của Ngài, nhưng dân Ngài không tiếp nhận. 12 Nhưng ai bằng lòng tin nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền trở thành con Thượng Đế. 13 Họ trở thành con Thượng Đế không phải theo cách loài người, nghĩa là sinh ra do cha mẹ hoặc ý người mà họ được Thượng Đế sinh thành.
14 Thiên Ngôn trở thành người và sống giữa chúng ta. Chúng ta thấy vinh hiển của Ngài, là vinh hiển dành cho Con Một của Cha. Ngài đầy ân phúc và chân lý. 15 Giăng làm chứng về Ngài và kêu lên, “Đây là Đấng mà tôi đã nói với các ông bà: ‘Đấng đến sau tôi còn cao trọng hơn tôi vì Ngài có trước tôi.’”
16 Vì Ngài tràn đầy ân phúc [c] cho nên nhờ Ngài mà chúng ta nhận hết ân phúc nầy đến ân phúc khác [d]. 17 Luật lệ được Mô-se ban hành còn ân phúc và chân lý đến từ Chúa Cứu Thế Giê-xu. 18 Chưa có ai thấy được Thượng Đế trừ ra Con Một ở ngay cạnh Cha [e] là Đấng đã bày tỏ Thượng Đế cho chúng ta biết.
Giăng Báp-tít làm chứng về Đấng Cứu Thế(A)
19 Đây là sự thật mà Giăng xác nhận khi người Do-thái ở Giê-ru-sa-lem sai các thầy tế lễ và người Lê-vi đến hỏi, “Ông là ai?”
20 Giăng tuyên bố công khai, không tránh né điều gì. Ông xác nhận, “Tôi không phải là Đấng Cứu Thế.”
21 Cho nên họ hỏi, “Thế thì ông là ai? Ông có phải là Ê-li không?”
Giăng đáp, “Không phải.”
Họ hỏi tiếp, “Ông có phải là nhà tiên tri không?”
Ông đáp, “Cũng không phải.”
22 Họ hỏi thêm, “Thế thì ông là ai? Xin cho chúng tôi biết để trình lại với những người đã sai chúng tôi đến. Ông tự xưng mình là ai?”
23 Giăng trích lời nhà tiên tri Ê-sai như sau, “Tôi là tiếng người kêu trong sa mạc, ‘Hãy san phẳng lối đi cho Ngài.’”
24 Mấy người được nhóm Pha-ri-xi sai đến hỏi Giăng: 25 “Nếu ông không phải Đấng Cứu Thế, không phải Ê-li, cũng không phải nhà tiên tri thì tại sao ông làm lễ báp-têm cho dân chúng?”
26 Giăng đáp, “Tôi làm báp-têm bằng nước, nhưng có một Đấng ở giữa các anh mà các anh không biết. 27 Ngài đến sau tôi, còn tôi cũng chẳng xứng đáng mở dây giày Ngài nữa.”
28 Mọi chuyện ấy diễn ra ở làng Bê-tha-ni, bên kia sông Giô-đanh, nơi Giăng làm báp-têm cho dân chúng.
Chúa Giê-xu, Chiên Con của Thượng Đế
29 Hôm sau Giăng thấy Chúa Giê-xu đi đến thì bảo rằng, “Kìa là Chiên Con của Thượng Đế, [f] Đấng xóa tội trần gian. 30 Đây là người mà tôi đã nói, ‘Có Đấng đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi vì Ngài vốn có trước tôi.’ 31 Dù tôi chưa biết Ngài nhưng tôi đến làm báp-têm bằng nước để giúp dân Do-thái biết về Ngài.”
32 Sau đó Giăng kể, “Tôi thấy Thánh Linh từ trời hiện xuống giống hình chim bồ câu đậu trên Ngài. 33 Đến lúc ấy tôi vẫn chưa biết Ngài là ai nhưng Thượng Đế, Đấng đã sai tôi để làm báp-têm bằng nước, bảo tôi rằng, ‘Hễ con thấy Thánh Linh ngự xuống trên ai thì đó chính là người sẽ làm báp-têm bằng Thánh Linh.’ 34 Tôi đã chứng kiến việc ấy nên tôi bảo thật: Người nầy là Con Thượng Đế.”
Các môn đệ đầu tiên của Chúa Giê-xu
35 Hôm sau Giăng đang đứng đó với hai môn đệ 36 thì thấy Chúa Giê-xu đi ngang qua. Giăng liền bảo, “Kìa là Chiên Con của Thượng Đế!”
37 Hai môn đệ nghe Giăng nói thế liền đi theo Ngài. 38 Chúa Giê-xu quay lại thấy hai người theo mình liền hỏi, “Các anh em tìm gì?”
Họ đáp, “Thưa Ra-bi ở đâu?” Chữ Ra-bi có nghĩa là “Thầy.”
39 Ngài bảo, “Mời các anh em đến xem.” Họ liền đi, thấy nơi Ngài ở và trọ lại với Ngài suốt hôm đó. Lúc ấy khoảng bốn giờ chiều.
40 Một trong hai người đi theo Chúa Giê-xu sau khi nghe Giăng nói về Ngài là Anh-rê, em của Xi-môn Phia-rơ. 41 Trước tiên ông đi tìm Xi-môn, anh mình và thuật, “Chúng em đã tìm được Đấng Mê-si.” Danh từ Mê-si có nghĩa Đấng Cứu Thế.
42 Sau đó ông đưa Xi-môn đến gặp Chúa Giê-xu. Vừa thấy Xi-môn Ngài bảo, “Tên anh là Xi-môn, con của Giăng. Từ nay anh sẽ được gọi là Xê-pha.” Xê-pha nghĩa là Phia-rơ [g].
43 Hôm sau Chúa Giê-xu quyết định lên miền Ga-li-lê. Ngài gặp Phi-líp và bảo, “Hãy theo ta!” 44 Phi-líp gốc gác ở thành Bết-xai-đa, cùng quê với Anh-rê và Phia-rơ. 45 Phi-líp gặp Na-tha-niên, bảo rằng, “Chúng tôi đã gặp được Đấng mà Mô-se có viết trong sách Luật và các nhà tiên tri cũng đề cập tới. Ngài là Giê-xu, con Giô-xép, quê ở Na-xa-rét.”
46 Na-tha-niên hỏi Phi-líp, “Có cái gì tốt ra từ Na-xa-rét được sao?”
Phi-líp đáp, “Thì hãy đến mà xem.”
47 Khi Chúa Giê-xu thấy Na-tha-niên đến với mình liền bảo, “Đây là một người Ít-ra-en chân thật, không có chút gì giả dối [h].”
48 Na-tha-niên hỏi, “Làm sao thầy biết con?”
Chúa Giê-xu đáp, “Trước khi Phi-líp gọi con, ta đã thấy con ngồi dưới gốc cây vả.”
49 Na-tha-niên thưa, “Thưa thầy, thầy đúng là Con Thượng Đế! Thầy thật là Vua của dân Ít-ra-en!”
50 Chúa Giê-xu hỏi Na-tha-niên, “Có phải con tin chỉ vì ta nói đã thấy con ngồi dưới gốc cây vả không? Con sẽ còn thấy nhiều điều kỳ diệu hơn thế nữa!” 51 Rồi Ngài bảo ông, “Ta bảo thật, các con sẽ thấy bầu trời mở ra và các thiên sứ của Thượng Đế lên xuống [i] trên Con Người.”
Copyright © 2010 by World Bible Translation Center