M’Cheyne Bible Reading Plan
Tấn phong các thầy tế lễ
29 “Khi tấn phong A-rôn và các con trai người làm thầy tế lễ cho ta thì con phải thi hành như sau. Bắt một con bò đực và hai con chiên đực không tật nguyền. 2 Dùng bột mịn không men làm bánh mì, bánh ngọt trộn với dầu ô-liu, và bánh kẹp tẩm dầu. 3 Để tất cả các món đó trong một cái giỏ rồi mang đến với con bò đực và hai con chiên đực.
4 Mang A-rôn và các con trai người đến trước cửa Lều Họp và tắm họ trong nước. 5 Lấy trang phục mặc vào cho A-rôn theo thứ tự áo trong và áo ngoài. Xong mặc áo ngắn thánh cho người cùng với bảng che ngực, rồi buộc thắt lưng bằng vải đẹp vào người. 6 Đặt khăn vành trên đầu người và đặt mão triều thánh lên khăn vành. 7 Dùng một loại dầu ô-liu đặc biệt đổ lên đầu để bổ nhiệm người làm thầy tế lễ.
8 Sau đó đem các con trai người ra và mặc áo dài trong cho họ. 9 Đặt băng quấn trên đầu họ và buộc thắt lưng quanh hông họ. A-rôn và con cháu người sẽ làm thầy tế lễ trong Ít-ra-en từ nay cho đến mãi mãi theo luật định. Đó là thể thức tấn phong chức thầy tế lễ cho A-rôn và các con trai người.
10 Mang con bò đực ra trước Lều Họp, A-rôn và các con trai người sẽ đặt tay lên đầu nó. 11 Rồi giết nó trước mặt CHÚA nơi cửa vào Lều Họp. 12 Lấy ngón tay bôi huyết con bò đực lên các góc bàn thờ, huyết còn lại thì đổ nơi chân bàn thờ. 13 Lấy tất cả mỡ bọc bộ lòng cùng với phần tốt nhất của lá gan, hai trái cật, và mỡ quanh trái cật đem thiêu trên bàn thờ. 14 Còn thịt con bò, da, và ruột thì đốt bên ngoài doanh trại. Đó là của lễ chuộc tội.
15 Bắt một con chiên đực, bảo A-rôn và các con trai người đặt tay trên đầu nó 16 sau đó giết nó, lấy huyết rưới lên trên và bốn cạnh của bàn thờ. 17 Xẻ nó ra từng miếng, rửa bộ lòng và bốn chân, đặt chung với đầu và các miếng khác. 18 Thiêu hết con chiên trên bàn thờ; đó là của lễ thiêu dâng lên cho CHÚA. Mùi thơm của nó sẽ làm vừa lòng Ngài.
19 Bắt con chiên đực thứ nhì, bảo A-rôn và các con trai người đặt tay trên đầu nó. 20 Giết nó và lấy ít huyết. Xức huyết nơi cuối vành tai phải của A-rôn và các con trai người và trên ngón cái tay mặt, ngón cái chân mặt của họ. Sau đó rưới chỗ huyết còn lại lên bốn cạnh bàn thờ. 21 Lấy ít huyết từ bàn thờ trộn với một loại dầu đặc biệt dùng tấn phong các thầy tế lễ. Rưới lên áo quần của A-rôn và các con trai người để chứng tỏ A-rôn, các con trai người và áo quần họ được biệt riêng để phục vụ ta.
22 Lấy mỡ từ con chiên đực, cái đuôi nguyên, và mỡ bọc bộ lòng. Ngoài ra, lấy phần tốt nhất của lá gan, hai trái cật, mỡ bao quanh trái cật, và cái đùi phải. (Đó là con chiên đực dùng trong lễ tấn phong các thầy tế lễ.) 23 Rồi lấy giỏ bánh không men đã đặt trước mặt CHÚA. Lấy ra một ổ bánh, một bánh ngọt làm với dầu và một cái bánh kẹp. 24 Đặt tất cả vào tay A-rôn và các con trai người, bảo họ dâng những món đó lên và đưa qua đưa lại làm của lễ cho CHÚA. 25 Sau đó lấy các món đó ra khỏi tay họ và thiêu trên bàn thờ cùng với của lễ toàn thiêu. Đó là của lễ thiêu dâng lên cho CHÚA; mùi thơm của nó sẽ làm vừa lòng Ngài.
26 Rồi lấy ức của con chiên đực dùng tấn phong chức tế lễ cho A-rôn dâng lên đưa qua đưa lại làm của lễ trước mặt CHÚA. Phần nầy của con vật sẽ là phần của con. 27 Để riêng ức và đùi của con chiên đã dâng lên khi tấn phong A-rôn và các con trai người. Những phần ấy thuộc về họ. 28 Đó là phần thường xuyên mà dân Ít-ra-en biếu cho A-rôn và các con trai người. Đó là của dâng mà người Ít-ra-en phải mang đến cho CHÚA lấy từ của lễ thân hữu.
29 Những trang phục may cho A-rôn sẽ thuộc về con cháu người để mỗi khi họ được tấn phong làm thầy tế lễ thì sẽ mặc. 30 Con trai A-rôn, người sẽ kế vị A-rôn làm thầy tế lễ cả, sẽ đến Lều Họp để phục vụ Nơi Thánh. Người phải mặc các trang phục đó trong bảy ngày.
31 Bắt con chiên đực dùng tấn phong các thầy tế lễ và luộc thịt nó trong một chỗ thánh. 32 A-rôn và các con trai người sẽ ăn thịt đó và bánh mì trong giỏ tại cửa Lều Họp. 33 Họ phải ăn những của lễ đó tức của lễ đã được dùng tẩy tội lỗi họ đồng thời khiến họ nên thánh khi họ được tấn phong chức tế lễ. Không ai khác được ăn các món ấy vì là những vật thánh. 34 Thịt chiên hay bánh mì còn dư lại đến sáng hôm sau thì phải đốt đi. Không được phép ăn, vì là vật thánh.
35 Hãy làm theo như ta dặn con phải làm cho A-rôn và các con trai người. Lễ tấn phong sẽ kéo dài trong bảy ngày. 36 Mỗi ngày con phải dâng một con bò đực để chuộc tội cho A-rôn và các con trai người để họ sẵn sàng phục vụ CHÚA. Chuẩn bị bàn thờ sẵn sàng phục vụ CHÚA bằng cách dâng của lễ chuộc tội cho bàn thờ, đổ dầu lên bàn thờ để thánh hóa nó. 37 Hãy dành bảy ngày để chuẩn bị bàn thờ sẵn sàng phục vụ Thượng Đế bằng cách chuộc tội cho bàn thờ và thánh hóa nó. Sau đó bàn thờ sẽ trở nên rất thánh, vật gì đụng đến bàn thờ cũng phải thánh.”
Các của lễ hằng ngày
38 “Từ nay về sau, mỗi ngày phải dâng hai chiên con một tuổi. 39 Một con dâng buổi sáng, con kia dâng buổi chiều trước chạng vạng. 40 Buổi sáng, khi con dâng con chiên đầu tiên thì phải dâng hai lít bột mịn trộn với một lít dầu ô-liu ép. Đổ một lít rượu làm của lễ uống. 41 Chiên con dâng buổi chiều cũng dùng cùng một loại của lễ chay và của lễ uống như buổi sáng. Đó là của lễ dâng bằng lửa lên cho CHÚA. Mùi thơm của nó sẽ làm vừa lòng Ngài.
42 Từ nay về sau con phải thiêu những thứ nầy mỗi ngày làm của lễ dâng lên cho CHÚA tại cửa Lều Họp trước mặt Ngài. Khi con dâng của lễ thì ta, CHÚA, sẽ gặp con và nói chuyện với con tại đó. 43 Ta cũng sẽ gặp dân Ít-ra-en tại nơi đó và vì vinh quang ta, nơi đó sẽ là nơi thánh.
44 Ta sẽ khiến Lều Họp và bàn thờ hóa thánh; ta cũng sẽ hoá thánh cho A-rôn và các con trai người để họ làm thầy tế lễ phục vụ ta. 45 Ta sẽ sống giữa dân Ít-ra-en và làm Thượng Đế của họ. 46 Họ sẽ biết ta là CHÚA, Thượng Đế đã dẫn họ ra khỏi Ai-cập để ta sống với họ. Ta là CHÚA và là Thượng Đế của họ.”
Người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình
8 Chúa Giê-xu lên núi Ô-liu. 2 Sáng hôm sau Ngài trở lại đền thờ thì dân chúng tụ tập xung quanh. Ngài liền ngồi xuống dạy dỗ họ. 3 Lúc ấy, các giáo sư luật và người Pha-ri-xi dẫn đến một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Họ bắt chị đứng trước mặt mọi người 4 rồi hỏi Chúa Giê-xu, “Thưa thầy, chị nầy bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. 5 Luật Mô-se qui định rằng hạng đàn bà như thế phải bị ném đá chết. Còn thầy thì nghĩ chúng tôi phải làm gì?” 6 Họ hỏi như thế cốt ý gài bẫy Ngài để có cớ tố cáo Ngài. Nhưng Chúa Giê-xu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. 7 Vì họ vẫn tiếp tục hỏi mãi, Ngài ngước lên bảo, “Ai ở đây chưa hề phạm tội thì hãy ném viên đá đầu tiên vào chị nầy.” 8 Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất.
9 Ai nghe vậy cũng lần lượt bỏ ra hết, già trước rồi đến trẻ. Chúa Giê-xu ở lại một mình, còn người đàn bà vẫn đang đứng trước mặt Ngài. 10 Ngài ngẩng lên hỏi chị, “Họ đâu cả rồi chị? Không ai buộc tội chị sao?”
11 Chị đáp, “Thưa thầy, không ai cả.”
Chúa Giê-xu bảo, “Tôi cũng không buộc tội chị. Thôi chị về đi, từ nay trở đi đừng phạm tội nữa.” [a]
Chúa Giê-xu là ánh sáng của trần gian
12 Sau đó Chúa Giê-xu nói chuyện với dân chúng. Ngài tuyên bố, “Ta là ánh sáng của trần gian. Ai theo ta sẽ không sống trong tối tăm nhưng có ánh sáng của sự sống.”
13 Người Pha-ri-xi nói với Ngài, “Khi thầy tự làm chứng cho mình thì lời chứng của thầy không có giá trị gì.”
14 Chúa Giê-xu đáp, “Mặc dù ta làm chứng về ta, nhưng những điều ta nói là thật, vì ta biết ta từ đâu đến và sẽ đi đâu. Các ngươi không biết ta từ đâu đến và sẽ đi đâu. 15 Các ngươi phán đoán theo tiêu chuẩn loài người. Còn ta không phán đoán ai. 16 Nhưng hễ ta phán đoán thì phán đoán của ta là đúng, vì ta không tự mình hành động; Cha ta, là Đấng sai ta đến, làm chứng cho ta. 17 Luật các ngươi qui định rằng khi hai nhân chứng cùng khai giống nhau thì các ngươi phải chấp nhận lời chứng ấy. 18 Ta là nhân chứng thứ nhất cho ta, và Cha ta tức Đấng sai ta đến, là nhân chứng thứ hai.”
19 Họ hỏi, “Cha thầy ở đâu?”
Chúa Giê-xu đáp, “Các ngươi không biết ta, cũng không biết Cha ta. Nếu các ngươi biết ta thì hẳn phải biết Cha ta nữa.” 20 Chúa Giê-xu nói những lời ấy khi đang dạy dỗ trong đền thờ, gần nơi để hộp đựng tiền dâng hiến. Tuy nhiên không ai dám bắt Ngài, vì thời điểm Ngài chưa đến.
Người Do-thái không hiểu Chúa Giê-xu
21 Chúa Giê-xu lại dạy dỗ nữa. Ngài bảo họ rằng, “Ta sẽ ra đi, các ngươi sẽ tìm ta nhưng các ngươi sẽ chết trong tội lỗi mình. Các ngươi sẽ không đến được nơi ta đi.”
22 Người Do-thái hỏi nhau, “Ông ta bảo chúng ta không thể đến được nơi ta đi. Vậy ông ta sẽ tự tử à?”
23 Chúa Giê-xu đáp, “Các ngươi thuộc về trần thế, còn ta từ trên cao xuống. Các ngươi thuộc về trần gian nầy nhưng ta không thuộc về trần gian. 24 Vì thế ta đã nói rằng các ngươi sẽ chết trong tội lỗi mình. Thật vậy, các ngươi sẽ chết trong tội lỗi mình, nếu các ngươi không tin ta là Đấng [b] từ trời xuống.”
25 Họ hỏi lại, “Vậy ông là ai?”
Chúa Giê-xu đáp, “Ta là Đấng đã nói với các ngươi từ lúc đầu. 26 Ta có nhiều điều phải nói và phán đoán về các ngươi. Tuy nhiên ta chỉ nói cho thế gian những điều ta đã nghe từ Đấng sai ta đến. Ngài nói ra sự thật.”
27 Họ không hiểu là Ngài đang nói với họ về Cha Ngài. 28 Nên Chúa Giê-xu tiếp, “Khi các ngươi treo Con Người lên [c] thì sẽ biết rằng ta là Đấng ấy. Các ngươi sẽ biết rằng ta không làm điều gì tự quyền mình, nhưng chỉ nói điều gì Cha chỉ dạy. 29 Đấng sai ta đến ở cùng ta. Ngài không để ta một mình, vì ta luôn luôn làm điều vừa lòng Ngài.” 30 Sau khi nghe Chúa Giê-xu nói như thế thì nhiều người tin Ngài.
Chúa Giê-xu nói về sự giải thoát khỏi tội lỗi
31 Chúa Giê-xu bảo những người Do-thái đã tin Ngài rằng, “Nếu các ngươi trung thành với lời dạy của ta thì các ngươi sẽ là môn đệ thật của ta. 32 Các ngươi sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải thoát các ngươi.”
33 Họ đáp, “Chúng tôi là con cháu Áp-ra-ham, chưa hề làm tôi mọi ai. Tại sao thầy lại nói chúng tôi sẽ được giải thoát?”
34 Chúa Giê-xu đáp, “Ta bảo thật, ai phạm tội là tôi mọi của tội lỗi. 35 Kẻ tôi mọi không sống mãn đời với gia đình nhưng con cái thì suốt đời thuộc về gia đình. 36 Cho nên nếu Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ thật được tự do. 37 Ta biết các ngươi là con cháu Áp-ra-ham. Nhưng các ngươi tìm cách giết ta, vì các ngươi không chấp nhận lời dạy của ta. 38 Ta nói điều ta đã thấy nơi Cha, còn các ngươi làm điều cha các ngươi dặn bảo.”
39 Họ đáp, “Cha chúng tôi là Áp-ra-ham.”
Chúa Giê-xu bảo, “Nếu các ngươi thật là con cháu Áp-ra-ham thì cũng sẽ làm như chính Áp-ra-ham đã làm. 40 Ta là người nói cho các ngươi biết sự thật mà ta đã nghe từ Thượng Đế, nhưng các ngươi tìm cách giết ta. Áp-ra-ham không hề làm như thế bao giờ! 41 Các ngươi làm giống như điều cha mình đã làm.”
Họ đáp, “Chúng tôi đâu có phải là con hoang. Thượng Đế là Cha chúng tôi. Chúng tôi chỉ có một Cha mà thôi.”
42 Chúa Giê-xu bảo họ, “Nếu Thượng Đế là Cha thật của các ngươi thì các ngươi sẽ yêu ta vì ta đến từ Thượng Đế và hiện nay ta đang có mặt tại đây. Ta không lấy quyền mình mà đến, nhưng Thượng Đế đã sai ta đến. 43 Các ngươi không hiểu điều ta nói, vì các ngươi không chịu chấp nhận lời dạy của ta. 44 Các ngươi thuộc về cha mình là ma quỉ, và làm theo ý muốn nó. Từ lúc đầu nó là kẻ giết người và lúc nào cũng nghịch lại sự thật, vì trong nó chẳng hề có sự thật. Khi nó nói dối, nó lộ bản tính thật của nó, vì nó là đứa nói dối và là cha của sự dối trá. 45 Nhưng vì ta nói sự thật nên các ngươi không chịu tin. 46 Có ai trong các ngươi buộc tội ta được không? Nếu ta nói sự thật, tại sao các ngươi không tin ta? 47 Ai thuộc về Thượng Đế thì nghe lời Thượng Đế. Các ngươi không thuộc về Thượng Đế nên các ngươi không nghe lời Ngài.”
Chúa Giê-xu nói về Ngài và về Áp-ra-ham
48 Người Do-thái đáp, “Chúng tôi bảo ông là người Xa-ma-ri và bị quỉ ám, có đúng không?”
49 Chúa Giê-xu trả lời, “Ta không bị quỉ ám. Ta tôn kính Cha ta, còn các ngươi làm nhục ta. 50 Ta không tìm kiếm uy danh cho riêng mình. Có một Đấng đang tìm uy danh cho ta. Ngài là quan án xét xử. 51 Ta bảo thật, người nào vâng theo lời dạy của ta sẽ chẳng bao giờ chết.”
52 Người Do-thái bảo Chúa Giê-xu, “Bây giờ chúng tôi thấy đúng là ông bị quỉ ám! Áp-ra-ham và các nhà tiên tri cũng đã chết còn ông bảo rằng, ‘Người nào vâng theo lời dạy của ta sẽ chẳng bao giờ chết!’ 53 Ông tổ chúng tôi là Áp-ra-ham đã chết; ông dám cho mình lớn hơn Áp-ra-ham sao? Các nhà tiên tri cũng đã chết. Vậy ông tự xưng là ai?”
54 Chúa Giê-xu đáp, “Nếu ta tự tìm vinh dự cho mình thì vinh dự ấy không có giá trị gì. Đấng tôn cao ta là Cha ta trên trời. Đấng mà các ngươi nhận là Thượng Đế mình. 55 Các ngươi chưa thật biết Ngài, nhưng ta biết Ngài. Nếu ta nói ta không biết Ngài, thì ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng ta biết Ngài và vâng lời Ngài. 56 Tổ tiên các ngươi là Áp-ra-ham, hớn hở mong được thấy ngày ta đến trần gian. Ông đã thấy và mừng rỡ.”
57 Người Do-thái bảo, “Ông làm sao mà thấy được Áp-ra-ham trong khi ông chưa đầy năm mươi tuổi?”
58 Chúa Giê-xu đáp, “Ta bảo thật, trước khi Áp-ra-ham sinh ra đã có ta.” 59 Khi nghe Ngài nói thế thì họ liền lượm đá để ném Ngài, nhưng Chúa Giê-xu lẩn tránh và ra khỏi đền thờ.
Khuyên răn về tội ngoại tình
5 Con ơi, hãy để ý đến sự khôn ngoan ta;
hãy lắng nghe sự hiểu biết của ta.
2 Hãy thận trọng mà sống cho khôn ngoan,
đừng để môi miệng mình nói điều không phải.
3 Vì lời dụ dỗ của vợ người khác nghe ngon ngọt như mật;
trơn láng hơn dầu ô-liu.
4 Nhưng cuối cùng nàng sẽ mang đến cho con sự cay đắng,
đâm con đau như gươm hai lưỡi.
5 Nàng đang đi trên con đường dẫn đến sự chết;
các bước chân nàng hướng thẳng vào mồ mả.
6 Nàng đã bỏ con đường sự sống,
cũng không hề biết đường mình đi là sai quấy.
7 Nầy các con ta, hãy nghe cha,
đừng bỏ qua điều cha dặn.
8 Hãy tránh xa hạng đàn bà như thế.
Chớ bén mảng đến gần cửa nhà nàng
9 nếu không con sẽ phải trao danh dự mình cho kẻ khác,
và dâng cuộc đời con cho kẻ hung ác.
10 Các người dưng sẽ hưởng của cải con,
và những gì con khổ công gây dựng sẽ lọt vào tay kẻ khác.
11 Cuối đời con sẽ rên rỉ
vì sức khoẻ con không còn.
12 Lúc đó con sẽ nói, “Tại sao tôi ghét sự dạy dỗ?
Tại sao tôi không thèm nghe sự sửa dạy?
13 Tôi chẳng thèm nghe thầy dạy tôi,
và bỏ ngoài tai sự sửa dạy.
14 Cho nên bây giờ tôi phải chịu khốn khổ đủ điều,
đến nỗi ai cũng biết.”
15 Hãy chung thủy với vợ con,
như uống nước giếng nhà mình.
16 Nếu không nước sẽ chảy ra ngoài đường,
nước con sẽ chảy ra chỗ công cộng.
17 Nước ấy chỉ cho một mình con dùng,
không nên san sẻ với người lạ.
18 Nguyện nguồn nước của con được phước.
Hãy hưởng khoái lạc với vợ con cưới lúc còn trẻ.
19 Nàng dễ thương như nai tơ,
và duyên dáng như dê rừng.
Nguyện thân hình nàng làm con vui sướng;
và tình yêu nàng mãi mãi mê hoặc con.
20 Con ơi, đừng bị quyến dụ bởi người đàn bà,
Chớ ôm ấp vợ người khác.
21 Chúa nhìn thấy lối đi của con người,
và Ngài dò xét đường lối họ.
22 Kẻ ác sẽ sụp vào mưu ác mình;
Dây tội lỗi sẽ buộc chặt nó.
23 Nó sẽ chết vì không biết tự chế,
và sự ngu dại nó sẽ dẫn nó đi lầm lạc.
4 Tôi muốn trình bày với anh chị em điều nầy: Người sẽ thừa kế gia tài của cha mẹ mà còn nhỏ tuổi thì chẳng khác gì kẻ nô lệ, dù rằng trong tương lai người ấy sẽ làm chủ trọn gia tài đi nữa. 2 Trong khi còn nhỏ phải vâng theo lời người giám hộ và quản lý tài sản mình. Chỉ khi đến tuổi thành niên theo người cha đã định thì người ấy mới được tự do. 3 Chúng ta cũng thế. Trước kia khi còn thơ ấu, chúng ta làm tôi mọi cho những quyền lực vô ích đang thống trị thế gian. 4 Nhưng đúng kỳ đã định, Thượng Đế sai Con Ngài đến, sinh ra do một người nữ và sống dưới luật pháp. 5 Thượng Đế đã định như vậy để Ngài có thể chuộc sự tự do cho những người sống dưới luật pháp và cũng để cho chúng ta có thể trở thành con nuôi Ngài.
6 Vì anh chị em là con cái Ngài nên Thượng Đế đưa Thánh Linh của Con Ngài vào lòng chúng ta. Thánh Linh đó kêu lên, “Thưa Cha!” [a] 7 Cho nên anh chị em không còn là nô lệ nữa mà là con Thượng Đế. Và vì anh chị em là con Ngài nên Ngài sẽ cho anh chị em hưởng ân phúc của Ngài.
Tình yêu của Phao-lô đối với các tín hữu
8 Trước kia anh chị em không biết Thượng Đế nên làm nô lệ cho những thần giả. 9 Nhưng nay anh chị em đã biết Thượng Đế chân chính. Thật ra Thượng Đế biết anh chị em thì đúng hơn. Thế thì tại sao anh chị em lại quay trở về với những qui tắc vô dụng trước kia? Anh chị em lại muốn làm nô lệ cho những thứ ấy nữa sao? 10 Anh chị em lại vẫn muốn giữ ngày, tháng, mùa và năm à? 11 Tôi rất lo ngại, vì tôi e rằng tôi đã phí công cho anh chị em.
12 Thưa anh chị em, vì tôi đã trở nên giống như anh chị em, xin anh chị em hãy trở nên giống như tôi. Trước đây anh chị em đối với tôi rất tốt. 13 Chắc anh chị em còn nhớ, lần đầu tiên, dù đang đau yếu nhưng tôi vẫn đến giảng Tin Mừng cho anh chị em. 14 Mặc dù bệnh tật là một thử thách nhưng anh chị em không ghét tôi hoặc xua đuổi tôi, mà trái lại, anh chị em đã tiếp đón tôi như thiên sứ của Thượng Đế và xem tôi như Chúa Cứu Thế vậy! 15 Lúc ấy anh chị em rất vui mừng, bây giờ thì niềm vui ấy đâu rồi? Tôi có thể làm chứng rằng lúc ấy nếu có thể được thì anh chị em cũng dám móc mắt mà cho tôi. 16 Bây giờ chẳng lẽ tôi trở thành kẻ thù anh chị em chỉ vì tôi nói sự thật sao?
17 Những người kia [b] tìm mọi cách thuyết phục anh chị em nhưng lòng dạ họ không tốt. Họ muốn dụ dỗ anh chị em chống lại chúng tôi để anh chị em hăng hái đi theo họ. 18 Người nào có nhiệt tâm với anh chị em đều tốt miễn là động lực của họ cũng tốt, chớ không phải chỉ tốt khi nào tôi có mặt giữa anh chị em mà thôi đâu. 19 Các con yêu dấu của ta ơi, ta đang chịu đau đớn để sinh ra các con cho đến khi Chúa Cứu Thế thành hình trong các con. 20 Ta muốn có mặt giữa các con để có thể thay đổi cách nói chuyện với các con vì hiện tại ta không biết nghĩ thế nào về các con.
Dùng A-ga và Sa-ra để dẫn chứng
21 Một vài người trong anh chị em vẫn còn muốn sống dưới luật pháp. Anh chị em nghe luật pháp nói gì không? 22 Thánh Kinh viết rằng Áp-ra-ham có hai con trai. Một đứa là con của người nữ nô lệ, còn đứa kia là con của người nữ tự do. 23 Đứa con của Áp-ra-ham do người nữ nô lệ sinh ra theo lối thông thường của loài người. Nhưng đứa con do người nữ tự do được sinh ra theo lời hứa của Thượng Đế với Áp-ra-ham.
24 Câu chuyện nầy còn mang một ý nghĩa khác: Hai người nữ ấy là hai giao ước mà Thượng Đế lập. Một giao ước được trao cho từ núi Si-nai và sinh ra con cái nô lệ. A-ga, tên người mẹ, là giao ước ấy. 25 Ha-ga có thể ví như núi Si-nai ở Á-rập và tương tự như thành Giê-ru-sa-lem ngày nay. Thành ấy và luôn cả dân cư đều là nô lệ cho luật pháp. 26 Nhưng Giê-ru-sa-lem trên trời thì tự do. Thành ấy là mẹ của chúng ta. 27 Như Thánh Kinh viết:
“Giê-ru-sa-lem ơi, hãy vui lên.
Ngươi là đàn bà chưa hề sinh con,
hãy ca hát và reo vui lên đi.
Con cái của phụ nữ bị bỏ rơi [c]
sẽ đông hơn con cái của phụ nữ có chồng.” (A)
28 Thưa anh chị em, anh chị em là con cái Thượng Đế do lời hứa của Ngài, giống như Y-sác đời xưa vậy. 29 Đứa con sinh ra theo lối tự nhiên bắt nạt đứa con sinh ra theo quyền lực của Thánh Linh. Ngày nay cũng thế. 30 Nhưng Thánh Kinh nói gì? “Hãy đuổi người đàn bà nô lệ và con của nó đi. Con người đàn bà nô lệ sẽ không được phép hưởng thụ điều gì chung với con của người đàn bà tự do đâu.” [d] 31 Vì thế, thưa anh chị em, chúng ta không phải là con của người đàn bà nô lệ mà là con của người đàn bà tự do.
Copyright © 2010 by World Bible Translation Center