Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)
Version
Sáng Thế 41

Các chiêm bao của vua

41 Hai năm sau, vua nằm mộng thấy mình đang đứng bên bờ sông Nin. Vua thấy bảy con bò cái mập tốt từ sông đi lên và đứng đó ăn cỏ. Rồi có bảy con bò cái ốm yếu xấu xí cũng từ sông đi lên. Chúng đứng cạnh các con bò mập trên bờ sông Nin. Bảy con bò gầy còm ốm yếu ăn thịt bảy con bò mập tốt. Rồi vua thức giấc.

Vua ngủ lại và thấy chiêm bao lần thứ nhì. Trong chiêm bao vua thấy bảy gié lúa chắc cùng mọc trên một cọng lúa. Sau đó có bảy gié lúa khác cũng mọc lên nhưng lép và bị gió Đông cháy sém. Các gié lúa lép nuốt bảy gié lúa chắc. Nhà vua chợt thức giấc và thấy đó chỉ là chiêm bao. Sáng hôm sau vua rất băn khoăn lo lắng về hai điềm chiêm bao, nên vua triệu tập các thuật sĩ và học giả trong xứ Ai-cập đến. Vua kể lại chiêm bao cho họ nghe nhưng không ai giải thích được.

Lúc đó quan hầu rượu thưa cùng vua rằng, “Bây giờ tôi mới nhớ lại lỗi của tôi. 10 Trước đây, khi nổi giận cùng quan làm bánh và tôi, bệ hạ đã tống giam chúng tôi vào ngục trong nhà của viên chỉ huy đội cận vệ. 11 Lúc ngồi tù, hai chúng tôi thấy chiêm bao cùng một đêm, mỗi chiêm bao mang ý nghĩa khác nhau. 12 Có một thanh niên Do-Thái, tôi tớ của viên chỉ huy đội cận vệ, cũng ngồi tù chung với chúng tôi. Khi chúng tôi kể lại chiêm bao cho anh ta, thì anh ta giải thích được ý nghĩa chiêm bao của từng người. 13 Rồi mọi việc xảy ra đúng y như anh ta tiên đoán: Tôi được phục chức, còn quan làm bánh bị treo cổ.”

14 Nhà vua cho triệu Giô-xép đến. Các lính cận vệ liền mang Giô-xép ra khỏi ngục, cạo râu, cho mặc quần áo mới rồi đi ra trình diện vua. 15 Nhà vua hỏi Giô-xép, “Ta có một chiêm bao nhưng không ai giải thích ý nghĩa được. Ta nghe nói ngươi có thể giải mộng được, nếu kể lại giấc mơ cho ngươi nghe.”

16 Giô-xép trả lời, “Tự mình tôi không thể giải thích ý nghĩa của chiêm bao nhưng Thượng Đế có thể làm được điều đó cho vua.”

17 Vậy vua kể cho Giô-xép nghe như sau, “Trong chiêm bao ta thấy ta đang đứng trên bờ sông Nin. 18 Ta thấy bảy con bò cái mập tốt từ sông đi lên ăn cỏ. 19 Rồi ta thấy bảy con bò nữa gầy còm ốm yếu cũng từ sông đi lên. Mấy con bò đó thật xấu xí mà ta chưa hề thấy trong cả xứ Ai-cập từ trước tới nay. 20 Bảy con bò gầy còm xấu xí nầy nuốt bảy con bò mập đầu tiên, 21 nhưng sau khi chúng ăn thịt bảy con bò kia, không ai thấy có gì khác vì chúng vẫn gầy còm ốm yếu như trước. Rồi ta thức giấc.

22 Ta lại thấy một chiêm bao nữa. Ta thấy bảy gié lúa chắc cùng mọc trên một cọng lúa. 23 Rồi có bảy gié lúa khác mọc lên sau nhưng bảy gié lúa nầy thì lép và bị gió nóng thổi từ phương đông cháy sém. 24 Mấy gié lúa lép nuốt mấy gié lúa chắc.

Ta kể chiêm bao nầy cho các thuật sĩ, nhưng không ai giải thích được ý nghĩa cả.”

Giô-xép giải mộng cho vua

25 Giô-xép liền thưa với vua, “Cả hai chiêm bao đều có cùng một ý nghĩa thôi. Thượng Đế báo cho vua biết điều Ngài sắp làm. 26 Bảy con bò cái mập tức là bảy năm, và bảy gié lúa chắc cũng là bảy năm. Hai chiêm bao mang cùng một ý nghĩa. 27 Bảy con bò cái gầy còm ốm yếu tức bảy năm, và bảy gié lúa lép bị gió Đông thổi cháy sém là bảy năm đói kém. 28 Biến cố nầy sẽ xảy ra như tôi đã tâu vua. Thượng Đế tỏ ra cho vua điều Ngài sắp làm. 29 Vua sẽ có bảy năm trúng mùa, thức ăn dư dật trong khắp xứ Ai-cập. 30 Nhưng sau bảy năm đó sẽ có bảy năm đói kém theo sau và người ta sẽ không còn nhớ lương thực đã trồng trong xứ Ai-cập nữa. Thời gian đói kém sẽ làm đất đai tiêu điều. 31 Dân chúng không còn nhớ thời kỳ dư dật lương thực nữa vì cơn đói kém tiếp theo rất khủng khiếp.

32 Hai điềm chiêm bao của vua mang cùng một ý nghĩa. Điều nầy cho thấy Thượng Đế nhất quyết thực hiện ý định Ngài, và Ngài sẽ sớm thực hiện ý đó. 33 Cho nên vua hãy chọn một người khôn ngoan hiểu biết đặt cai quản cả xứ Ai-cập. 34 Vua cũng hãy bổ nhiệm các viên chức cai trị khắp xứ. Họ sẽ thu một phần năm lương thực trong bảy năm trúng mùa. 35 Rồi tích trữ lương thực trong các năm trúng mùa sắp đến, và nhân danh vua chứa số lương thực ấy trong các thành phố và canh giữ cẩn thận. 36 Số lương thực ấy sẽ được dùng vào bảy năm đói kém sẽ đến trong xứ Ai-cập. Như thế trong bảy năm đói kém dân chúng Ai-cập sẽ không phải chết đói.”

Giô-xép được cử cai quản xứ Ai-cập

37 Nghe lời đề nghị đó, vua thấy có vẻ hợp lý. Tất cả các quan trong triều cũng đồng ý. 38 Vua hỏi họ, “Chúng ta tìm đâu ra người nào xứng đáng hơn Giô-xép để đảm nhận việc nầy? Thần linh của Thượng Đế quả thật ngự trong anh ta!”

39 Vua liền bảo Giô-xép, “Thượng Đế đã tỏ cho ngươi biết những việc nầy. Không ai khôn ngoan thông sáng hơn ngươi nữa 40 cho nên ta cử ngươi quản trị cung điện ta. Mọi người phải tôn trọng ngươi, chỉ có một mình ta là trên quyền ngươi mà thôi.”

41 Vua bảo Giô-xép, “Nầy ta đã cử ngươi cai quản cả xứ Ai-cập.” 42 Rồi vua tháo nhẫn mình, có ấn vua, khỏi ngón tay và đeo vào ngón tay Giô-xép. Vua cấp cho Giô-xép áo quần bằng vải gai mịn để mặc và đeo vòng vàng vào cổ Giô-xép. 43 Vua cho Giô-xép đi xe ngựa thứ nhì của vua rồi cho người đi trước hô lên, “Hãy cúi đầu xuống!” Đó là dấu hiệu cho thấy vua đề cử Giô-xép quản trị cả xứ Ai-cập.

44 Vua bảo Giô-xép, “Ta là vua. Ta bảo rằng không ai trong xứ nầy được phép giơ tay hay chân nếu ngươi không cho.” 45 Vua đặt tên Giô-xép là Xa-phê-nát Ba-nê-a [a]. Vua cũng ban cho Giô-xép cô vợ tên A-xê-nát, con gái của Phô-ti-phê-ra, thầy tế lễ thành On. Vậy Giô-xép đi thăm khắp xứ Ai-cập.

46 Giô-xép được ba mươi tuổi khi bắt đầu phục vụ vua Ai-cập. Ông rời triều đình vua và kinh lý khắp xứ Ai-cập. 47 Trong bảy năm trúng mùa, đất cho hoa lợi rất nhiều 48 Giô-xép thu góp hết thực phẩm sản xuất trong xứ Ai-cập trong bảy năm trúng mùa và tồn trữ trong các thành phố. Ở thành nào Giô-xép cũng trữ ngũ cốc trồng trong ruộng quanh thành đó. 49 Giô-xép tồn trữ ngũ cốc nhiều như cát bãi biển đến nỗi ông không thể tính được nữa.

50 Vợ của Giô-xép là A-sê-nát, con gái của Phô-ti-phê-ra, thầy tế lễ thành On. Trước khi cơn đói kém đến, Giô-xép và A-sê-nát đã sinh hai con trai. 51 Giô-xép đặt tên cho đứa đầu là Ma-na-xe [b] và bảo, “Thượng Đế đã làm cho tôi quên hết những cảnh khốn khó tôi đã gặp và quên gia đình cha tôi.” 52 Giô-xép đặt tên con trai thứ nhì là Ép-ra-im [c] và bảo, “Thượng Đế đã ban cho tôi con cái trong xứ mà tôi gặp khốn khó.”

Nạn đói kém bắt đầu

53 Bảy năm trúng mùa chấm dứt trong xứ Ai-cập. 54 Sau đó bảy năm đói kém bắt đầu, đúng như Giô-xép tiên liệu. Trong khắp thế gian dân chúng không có gì ăn nhưng trong xứ Ai-cập thì có lương thực. 55 Cơn đói kém trở nên khủng khiếp trong cả xứ Ai-cập cho nên dân chúng đến kêu xin vua ban cho lương thực. Vua bảo họ, “Mấy anh hãy đi đến Giô-xép mà xin, người bảo gì thì làm như thế.”

56 Cả thế giới lâm nạn đói nên Giô-xép mở kho bán ngũ cốc cho dân chúng Ai-cập, vì cơn đói kém trở nên khủng khiếp trong nước. 57 Dân chúng tất cả các nước đều đến mua ngũ cốc từ Giô-xép vì đâu đâu trên thế giới cũng gặp nạn đói kinh khủng.

Mác 11

Chúa Giê-xu vào thành Giê-ru-sa-lem như một Hoàng Đế(A)

11 Khi Chúa Giê-xu và các môn đệ gần tới thành Giê-ru-sa-lem thì đến các thị trấn Bết-phát và Bê-tha-ni, gần núi Ô-liu. Từ đó, Ngài bảo hai môn đệ đi và dặn, “Đi đến thị trấn trước mặt các con. Vừa khi vào thành, các con sẽ thấy một con lừa con đang cột, chưa có ai cỡi. Tháo nó ra dắt về đây cho ta. Nếu có ai hỏi tại sao làm như thế, thì bảo họ là Chúa cần nó và Ngài sẽ trả lại ngay.”

Họ đi và thấy một con lừa con đang cột bên đường, gần cửa một căn nhà, liền tháo ra. Có mấy người đứng đó hỏi, “Mấy ông mở lừa con ra làm gì thế?” Các môn đệ trả lời theo như Chúa Giê-xu dặn, thì họ liền để cho đi. Họ mang lừa con về cho Chúa Giê-xu, lấy áo trải trên lưng lừa, rồi Chúa Giê-xu cỡi lên. Nhiều người trải áo mình trên mặt đường. Kẻ khác chặt nhánh cây trong đồng và trải trên đường. Dân chúng kẻ trước người sau hô lên,

“Tung hô [a], Phúc cho Đấng
    nhân danh Chúa mà đến! (B)

10 Phúc cho nước sắp đến của tổ tiên chúng ta là Đa-vít!
    Tung hô Thượng Đế trên trời cao!”

11 Chúa Giê-xu đến thành Giê-ru-sa-lem và đi vào đền thờ. Sau khi xem qua mọi việc, Ngài trở về làng Bê-tha-ni với mười hai môn đệ vì lúc ấy đã sập tối.

Chúa Giê-xu quở cây vả(C)

12 Hôm sau, khi Chúa Giê-xu rời làng Bê-tha-ni thì Ngài đói. 13 Thấy một cây vả có lá ở đàng xa, Ngài đến gần xem thử có trái không, nhưng chẳng thấy, chỉ có lá thôi, vì lúc ấy chưa phải mùa vả. 14 Chúa Giê-xu liền bảo cây vả, “Sẽ không có ai ăn trái của mầy nữa.” Các môn đệ đều nghe lời ấy.

Chúa Giê-xu vào đền thờ(D)

15 Lúc trở lại thành Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-xu đi vào đền thờ và đuổi những người buôn bán ở đó. Ngài lật đổ bàn của những kẻ đổi tiền và hất ghế của những người bán bồ câu. 16 Ngài không cho phép ai mang hàng bán qua sân đền thờ. 17 Rồi Ngài dạy dân chúng, “Có phải Thánh Kinh viết rằng ‘Đền thờ ta sẽ được gọi là nhà nguyện cho muôn dân [b] không?’ Nhưng các ngươi biến nơi nầy thành ‘sào huyệt lũ cướp.’” [c]

18 Các giới trưởng tế và các giáo sư luật nghe thế liền tìm cách giết Chúa Giê-xu. Nhưng họ sợ Ngài vì dân chúng rất ham thích lời dạy dỗ của Ngài. 19 Chiều hôm ấy Chúa Giê-xu cùng các môn đệ rời thành.

Quyền năng của đức tin(E)

20 Sáng hôm sau khi Chúa Giê-xu và các môn đệ đi ngang qua thì thấy cây vả đã chết khô tận rễ. 21 Phia-rơ nhớ lại chuyện liền thưa với Ngài, “Thầy xem kìa. Cây vả thầy rủa, bây giờ chết khô rồi!”

22 Chúa Giê-xu bảo họ, “Các con hãy có lòng tin nơi Thượng Đế. 23 Ta bảo thật, ai bảo hòn núi nầy, ‘Hãy bứng lên và nhào xuống biển đi!’ Nếu người ấy không có gì ngờ vực trong lòng, nhưng tin chắc điều mình nói sẽ thành sự thật, thì việc ấy sẽ xảy ra. 24 Nên ta bảo các con, hãy tin rằng mình đã nhận được điều mình khẩn xin trong khi cầu nguyện, thì sẽ nhận được điều ấy. 25 Khi đang đứng cầu nguyện, nếu các con có điều gì nghịch với người nào thì hãy tha thứ họ, để Cha các con trên trời cũng tha tội cho các con.” 26 [d]

Các nhà cầm quyền nghi ngờ quyền năng của Chúa Giê-xu(F)

27 Chúa Giê-xu cùng các môn đệ trở lại thành Giê-ru-sa-lem. Trong khi Ngài đang đi dạo trong đền thờ, thì các giới trưởng tế, các giáo sư luật và các bô lão đến gặp Ngài. 28 Họ hỏi, “Thầy lấy quyền ở đâu mà làm những điều nầy? Ai cho thầy quyền ấy?”

29 Chúa Giê-xu đáp, “Tôi cũng hỏi các ông một câu. Nếu các ông trả lời được, tôi sẽ nói cho các ông biết quyền của tôi đến từ đâu. 30 Các ông hãy cho tôi biết: Lễ báp-têm của Giăng đến từ trời hay từ người?”

31 Họ bàn nhau về câu hỏi của Ngài như thế nầy, “Nếu chúng ta trả lời, ‘Lễ báp-têm của Giăng đến từ trời,’ thì ông ta sẽ hỏi ‘Thế tại sao các ông không tin ông ấy?’ 32 Nhưng nếu chúng ta nói, ‘Lễ ấy đến từ người,’ thì dân chúng sẽ phản đối chúng ta.” Các nhà cầm quyền nầy sợ dân chúng, vì ai cũng tin rằng Giăng là một nhà tiên tri.

33 Nên họ trả lời với Chúa Giê-xu “Chúng tôi không biết.”

Chúa Giê-xu bảo họ, “Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền năng nào mà làm những việc nầy.”

Gióp 7

“Con người sống trên đất phải gánh công việc nhọc nhằn,
    ngày của họ như ngày của kẻ cần lao.
Họ như kẻ nô lệ ao ước bóng hoàng hôn,
    như lao công trông chờ lương bổng.
Nhưng những tháng ngày của tôi trống rỗng vô vị,
    và những đêm tối của tôi đầy khốn khổ.
Khi nằm xuống, tôi tự hỏi,
    ‘Chừng nào tôi sẽ thức dậy?’
Đêm dài, tôi nằm thao thức đến sáng.
Thân thể tôi đầy dòi bọ và ghẻ chốc,
    da tôi bị nứt nẻ đầy vết lở.

Những ngày tháng của tôi trôi qua mau hơn khung dệt cửi,
    đến cuối cùng không có hi vọng gì.
Lạy Thượng Đế, xin nhớ rằng đời sống tôi chẳng khác nào hơi thở.
    Mắt tôi sẽ không bao giờ còn thấy thời kỳ vui vẻ nữa.
Những ai đã từng thấy tôi sẽ chẳng bao giờ thấy tôi nữa;
    Ngài sẽ tìm tôi nhưng tôi không còn nữa.
Như mây tan biến không còn thấy,
    con người xuống mồ mả không bao giờ trở lại.
10 Họ không bao giờ trở về nhà mình nữa,
    và chỗ ở của họ cũng không nhận ra họ nữa.

11 Vì thế tôi sẽ không im lặng;
    Tôi sẽ nói lên trong cái khổ đau của tinh thần tôi.
    Tôi sẽ kêu rêu vì thiếu hạnh phúc.
12 Tôi chẳng phải thần hà bá cũng chẳng phải là quái vật của biển [a].
    Sao CHÚA canh giữ tôi bốn bên?
13 Đôi khi tôi tưởng giường tôi sẽ an ủi tôi
    hay cái chõng của tôi sẽ khiến tôi thôi than thở.
14 Thì Ngài lấy mộng mị làm tôi
    kinh hãi, và khiến tôi hoảng sợ vì dị tượng.
15 Chẳng thà tôi bị ngột thở;
    còn hơn sống như thế nầy.
16 Tôi ghét sự sống tôi; tôi chẳng muốn sống đời đời.
    Xin để tôi yên, vì đời tôi chẳng có ý nghĩa gì.
17 Tại sao Ngài làm cho con người quan trọng
    và chú ý đến họ làm gì?
18 Mỗi sáng Ngài dò xét họ,
    và lúc nào cũng thử nghiệm họ.
19 Xin CHÚA làm ơn nhìn chỗ khác,
    hay để tôi có thể nuốt nước miếng được không?
20 Nếu tôi có phạm tội, thì tôi đã làm gì Ngài,
    hỡi Đấng trông chừng loài người?
Sao Ngài dùng tôi làm đối tượng của Ngài?
    Phải chăng tôi đã trở thành gánh nặng cho Ngài?
21 Sao Ngài không tha thứ những sai lầm tôi và xoá bỏ tội lỗi tôi?
    Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ nằm xuống chung với bụi đất.
    Lúc đó Ngài sẽ tìm tôi, nhưng tôi không còn nữa.”

Rô-ma 11

Thượng Đế không bỏ quên dân Ngài

11 Nên tôi xin hỏi: Có phải Thượng Đế đã từ bỏ dân của Ngài rồi sao? Không phải! Tôi là người Ít-ra-en, thuộc dòng dõi Áp-ra-ham, về chi tộc Bên-gia-min. Thượng Đế đã chọn dân Ít-ra-en cho Ngài trước khi họ sinh ra. Ngài chưa gạt bỏ họ. Chắc anh chị em còn nhớ lời Thánh Kinh viết về Ê-li khi ông oán trách dân Ít-ra-en với Thượng Đế. Ông thưa, “Lạy Chúa, họ đã giết các nhà tiên tri của Ngài, phá sập bàn thờ Ngài. Chỉ một mình con còn sót lại, và họ cũng tìm cách giết con luôn.” [a] Nhưng Thượng Đế trả lời cho Ê-li ra sao? Ngài đáp, “Ta đã để dành bảy ngàn người trong Ít-ra-en chưa bái lạy thần Ba-anh.” [b] Ngày nay cũng thế, do ân phúc của Ngài, Thượng Đế đã chọn một số người. Nếu Ngài chọn họ theo ân phúc của Ngài thì chắc chắn sự tuyển chọn ấy không do công lao của họ. Nếu họ trở thành con dân Thượng Đế qua công lao của họ thì ân phúc của Ngài không thể nào được xem là “ân” nữa.

Cho nên chúng ta phải hiểu như sau: Mặc dù dân Ít-ra-en tìm cách hòa thuận lại với Thượng Đế nhưng không được; chỉ những người Ngài chọn là được hòa thuận lại với Ngài mà thôi. Những người còn lại trở nên ương ngạnh và phản nghịch Thượng Đế. Như Thánh Kinh viết:

“Thượng Đế khiến tâm trí họ đờ đẫn
    để họ không còn hiểu biết.” (A)

“Ngài khép con mắt họ lại để họ không thấy
    bịt tai họ lại để họ không nghe.
Cho đến ngày nay họ vẫn y như thế.” (B)

Như Đa-vít nói:

“Nguyện yến tiệc chúng nó trở thành bẫy sập cho chúng nó,
    khiến chúng nó bị tổn hại;
Nguyện tiệc yến chúng nó khiến chúng nó vấp ngã cho đáng đời.
10 Nguyện mắt chúng nó bị mù để không thấy;
Nguyện lưng chúng nó bị khòm mãi vì khốn khổ.” (C)

11 Cho nên tôi xin hỏi: Khi người Do-thái vấp ngã thì sự vấp ngã đó có tiêu diệt họ không? Không! Nhưng lỗi lầm của họ mang sự cứu rỗi đến cho người không phải Do-thái để họ ganh tức. 12 Nếu lỗi lầm của người Do-thái đã mang vô số phúc lành đến cho thế gian, và sự mất mát của họ đã mang ân phúc đến cho người không phải Do-thái thì thế gian sẽ còn nhận được phúc lành biết bao nhiêu nữa khi đủ số người Do-thái trở thành dân tộc của Thượng Đế!

13 Tôi muốn nói với anh chị em là những người không phải Do-thái. Tôi làm sứ đồ cho những người không phải Do-thái và vì tôi nhận công tác ấy, nên tôi cố gắng làm hết sức mình. 14 Tôi mong kích thích lòng ganh đua của dân tộc tôi để có thể cứu một số người trong vòng họ. 15 Khi Thượng Đế quay mặt khỏi người Do-thái, thì Ngài kết bạn với các dân tộc khác trên thế giới. Cho nên, khi Thượng Đế chấp nhận người Do-thái thì chẳng khác nào khiến họ đã chết mà lại sống.

16 Nếu miếng bánh đầu tiên được dâng cho Thượng Đế, thì cả ổ bánh sẽ hóa thánh. Nếu rễ là thánh, thì các nhánh cũng thánh.

17 Giống như một vài nhánh ô-liu đã bị gãy. Anh chị em là người không phải Do-thái như nhánh ô-liu hoang được tháp vào gốc ô-liu thật. Hiện nay anh chị em nhận được sức sống từ gốc ô-liu thật là người Do-thái. 18 Vì thế đừng khoe khoang vì những nhánh đã bị gãy. Nếu anh chị em khoe khoang thì nên nhớ rằng không phải anh chị em nâng đỡ cái rễ, mà là cái rễ nâng đỡ anh chị em. 19 Anh chị em có thể bảo, “Mấy nhánh kia bị gãy để ta được tháp vào.” 20 Đúng. Nhưng những nhánh kia bị gãy vì không tin, còn anh chị em được tháp vào cây chỉ vì anh chị em tin. Đừng tự phụ nhưng hãy lo sợ. 21 Nếu Thượng Đế đã chặt bỏ những nhánh tự nhiên đó khỏi cây, thì Ngài cũng sẽ có thể làm như thế đối với anh chị em.

22 Cho nên anh chị em thấy rằng, tuy Thượng Đế rất nhân từ nhưng Ngài cũng rất nghiêm khắc. Ngài trừng phạt những ai không tin nhận Ngài. Nhưng Thượng Đế tỏ lòng nhân từ đối với anh chị em, nếu anh chị em cứ ở trong lòng nhân từ Ngài. Nếu không, Ngài sẽ chặt anh chị em khỏi cây. 23 Còn nếu người Do-thái chịu trở lại tin Ngài, thì Thượng Đế cũng sẽ tiếp nhận họ. Ngài có quyền tháp họ vào chỗ cũ. 24 Nhánh hoang không thể mọc tự nhiên từ gốc cây tốt. Anh chị em là người không phải Do-thái như những nhánh chặt từ một cây ô-liu hoang, được tháp vào cây ô-liu tốt. Còn người Do-thái giống như nhánh mọc tự nhiên từ cây tốt, cho nên họ có thể được tháp vào gốc cây nguyên thủy rất dễ dàng.

25 Tôi muốn anh chị em biết điều mầu nhiệm ấy để anh chị em hiểu rằng mình không biết đủ thứ được. Một phần dân Do-thái đã trở nên ương ngạnh, nhưng tình trạng ấy sẽ thay đổi khi đủ số những người không phải Do-thái trở lại với Thượng Đế. 26 Đó là cách mà dân Ít-ra-en sẽ được cứu. Như Thánh Kinh viết:

“Đấng Cứu Thế từ Giê-ru-sa-lem đến;
Ngài sẽ dẹp mọi gian ác khỏi nhà Gia-cốp.
27 Và ta sẽ lập giao ước nầy với họ
    khi ta đã xóa tội lỗi họ.” (D)

28 Người Do-thái không chịu tiếp nhận Tin Mừng nên họ đã trở thành thù nghịch với Thượng Đế. Nhờ đó mà anh chị em là người không phải Do-thái được hưởng ân phúc. Nhưng người Do-thái vẫn là dân được lựa chọn của Thượng Đế. Vì lời hứa Ngài đã lập với các tổ tiên họ, nên Ngài vẫn yêu thương họ. 29 Thượng Đế không bao giờ đổi ý về những người Ngài đã chọn và những gì Ngài đã dành cho họ. 30 Trước kia anh chị em cũng đã chống nghịch Thượng Đế, nhưng hiện nay anh chị em đã nhận ơn thương xót vì những người kia chống nghịch Ngài. 31 Và vì người Do-thái chống nghịch, nên Ngài tỏ lòng thương xót đối với anh chị em. Như thế để họ cũng nhận ơn thương xót từ Ngài. 32 Ngài bỏ mặc họ cho mọi sự chống nghịch để Ngài tỏ lòng nhân từ đối với mọi người.

Ca ngợi Thượng Đế

33 Sự giàu có của Thượng Đế vô cùng bao la, sự khôn ngoan và hiểu biết của Ngài thật vô hạn! Không ai có thể giải thích, phê phán hay hiểu được đường lối Ngài. 34 Như Thánh Kinh nói,

“Ai biết được ý Chúa,
    hoặc cố vấn cho Ngài?” (E)

35 “Ngài không chịu ơn ai, mà cũng
    không phải trả ơn cho ai cả.” (F)

36 Thượng Đế đã tạo nên muôn loài, mọi vật được sống còn là nhờ Ngài và vì Ngài. Nguyền vinh hiển thuộc về Ngài đời đời! A-men.

Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)

Copyright © 2010 by World Bible Translation Center