Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)
Version
Sáng Thế 35-36

Gia-cốp ở Bê-tên

35 Thượng Đế bảo Gia-cốp, “Hãy đi đến Bê-tên [a] và lập nghiệp ở đó. Hãy lập một bàn thờ cho Thượng Đế, Đấng đã hiện ra cùng con tại đó, khi con đang chạy trốn khỏi Ê-sau, anh con.”

Vậy Gia-cốp bảo các gia nhân và những người đi theo mình rằng, “Hãy dẹp hết các thần lạ mà các con có, chuẩn bị mình cho thanh sạch, thay quần áo mới đi! Chúng ta sẽ rời nơi đây, dọn đến Bê-tên. Ta sẽ dựng một bàn thờ cho Thượng Đế tại đó, Đấng đã phù hộ ta trong cơn khốn khó. Ngài đã phù hộ ta mọi nơi ta đã đi.”

Vậy họ giao cho Gia-cốp các tượng thần lạ họ có, các bông tai đang đeo, rồi ông chôn tất cả dưới gốc cây sồi [b] gần thành Sê-chem.

Gia-cốp và các con rời nơi đó. Thượng Đế khiến cho dân cư các thành gần đó hoảng sợ nên không ai dám đuổi theo họ. Gia-cốp cùng những người theo mình đi đến Lu-xơ, nay gọi là Bê-tên, trong xứ Ca-na-an. Gia-cốp dựng một bàn thờ và đặt tên là “Thượng Đế của Bê-tên,” theo tên Thượng Đế vì Thượng Đế đã hiện ra cùng ông khi ông đang chạy trốn khỏi anh mình.

Đê-bô-ra, người vú em của Rê-be-ca qua đời và được chôn cất bên gốc cây sồi ở Bê-tên cho nên họ gọi chỗ đó là Cây Sồi Khóc Lóc. [c]

Tên mới của Gia-cốp

Khi Gia-cốp từ miền tây bắc Mê-sô-bô-ta-mi trở về thì Thượng Đế lại hiện ra cùng ông và ban phước cho ông. 10 Thượng Đế bảo ông, “Tên con hiện là Gia-cốp nhưng con sẽ không được gọi là Gia-cốp nữa. Tên mới của con sẽ là Ít-ra-en.” Nên Ngài gọi ông là Ít-ra-en.

11 Thượng Đế bảo ông, “Ta là Thượng Đế Toàn Năng. Hãy sinh thật đông con để trở thành một dân tộc. Con sẽ là tổ phụ của nhiều dân nhiều vua. 12 Đất mà ta cho Áp-ra-ham và Y-sác ta cũng sẽ cho con và dòng dõi con.” 13 Nói xong, Thượng Đế ngự lên khỏi nơi ấy. 14 Gia-cốp dựng tảng đá nơi Thượng Đế nói chuyện với mình. Ông đổ của lễ uống và dầu ô liu trên đó để biệt riêng ra cho Ngài. 15 Gia-cốp gọi chỗ ấy là Bê-tên.

Ra-chên qua đời khi sinh nở

16 Gia-cốp và đoàn người cùng đi với ông rời Bê-tên. Trước khi họ đến Ếp-rát thì Ra-chên bắt đầu chuyển bụng nhưng sinh khó. 17 Bà đỡ [d] thấy vậy bảo, “Ra-chên ơi, đừng sợ. Chị đang sinh thêm một con trai nữa đó.”

18 Ra-chên sinh ra một trai, nhưng rồi qua đời. Khi đang hấp hối nàng đặt tên cho đứa bé là Bê-nô-ni [e], nhưng Gia-cốp đặt tên nó là Bên-gia-min [f].

19 Ra-chên được chôn cất trên con đường đi đến Ếp-rát, gọi là Bết-lê-hem, 20 Gia-cốp dựng một tảng đá làm bia để tưởng nhớ nàng. Tảng đá đó hiện vẫn còn. 21 Rồi Ít-ra-en tiếp tục cuộc hành trình và đóng trại gần miền nam tháp Ê-đe [g].

22 Trong khi Ít-ra-en ở đó thì Ru-bên đến ăn nằm với đứa nữ tì Bi-la, Ít-ra-en nghe biết chuyện ấy.

Gia đình của Ít-ra-en

Gia-cốp có mười hai con trai.

23 Sáu người con trai đầu do Lê-a sinh ra: Ru-bên, con trưởng nam, rồi đến Xi-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-xa-ca, và Xê-bu-lôn.

24 Ông có hai con trai do Ra-chên sinh ra: Giô-xép và Bên-gia-min.

25 Ông cũng có hai con do Bi-la, nữ tì của Ra-chên sinh ra: Đan và Nép-ta-li.

26 Ngoài ra ông cũng có hai con trai do Xinh-ba, nữ tì của Lê-a sinh ra: Gát và A-se.

Đó là tất cả những người con trai của Gia-cốp sinh ra ở miền Tây Bắc Mê-sô-bô-ta-mi.

27 Gia-cốp trở về cùng cha mình là Y-sác ở Mam-rê gần Hếp-rôn, nơi Áp-ra-ham và Y-sác sinh sống. 28 Y-sác hưởng thọ một trăm tám mươi tuổi. 29 Y-sác trút hơi thở cuối cùng và qua đời khi tuổi cao. Hai con trai Y-sác, Ê-sau và Gia-cốp chôn cất ông.

Gia đình của Ê-sau

36 Sau đây là gia phổ của Ê-sau (cũng có tên là Ê-đôm). Ê-sau lấy các người nữ trong xứ Ca-na-an: A-đa, con gái Ê-lôn người Hê-tít; Ô-hô-li-ba-ma, con gái của A-na, cháu gái của Xi-bê-ôn người Hê-vít; và Bát-sê-mát, con gái Ích-ma-ên, chị của Nê-bai-ốt. A-đa sinh ra Ê-li-pha cho Ê-sau. Bát-sê-mát sinh cho ông Ru-ên, còn Ô-hô-li-ba-ma sinh Giê-út, Gia-lam và Co-ra cho ông. Đó là các con trai của Ê-sau sinh ra trong xứ Ca-na-an.

Ê-sau đưa các vợ, con trai, con gái và những người cùng sống với mình, bầy gia súc và thú vật khác cùng tất cả tài sản có được trong xứ Ca-na-an đến một vùng cách xa em mình là Gia-cốp. Vì tài sản của Ê-sau và Gia-cốp quá nhiều nên đất không đủ rộng cho hai người. Đất đai ở đó không nuôi nổi hai người, vì họ có quá nhiều gia súc. Ê-sau định cư trong vùng núi Sê-ia [h]. Ê-sau cũng có tên là Ê-đôm.

Gia phổ của Ê-sau gồm có: Ê-sau là tổ tiên của người Ê-đôm sống trong vùng núi Ê-đôm.

10 Các con trai của Ê-sau là: Ê-li-pha, con của Ê-sau với A-đa, Ru-ên, con của Ê-sau với Bát-sê-mát.

11 Ê-li-pha có năm con trai: Thê-man, Ô-ma, Xê-phô, Ga-tam và Kê-nát. 12 Ê-li-pha cũng có một nữ tì tên Thim-na. Thim-na và Ê-li-pha sinh ra A-ma-léc. Đó là cháu của Ê-sau thuộc dòng vợ A-đa.

13 Ru-ên có bốn con trai: Na-hát, Xê-ra, Sam-ma, và Mích-xa.

Đó là các cháu nội của Ê-sau thuộc dòng vợ Bát-sê-mát.

14 Vợ thứ ba của Ê-sau là Ô-hô-li-ba-ma, là con gái A-na và cháu gái của Xi-bê-ôn. Ê-sau và Ô-hô-li-ba-ma sinh ra Giê-út, Gia-lam và Co-ra.

15 Sau đây là những tộc trưởng xuất thân từ Ê-sau:

Con cả của Ê-sau là Ê-li-pha. Từ Ê-li-pha sinh ra các tộc trưởng sau đây: Thê-man, Ô-ma, Xê-phô, Kê-nát, 16 Co-ra, Ga-tam, và A-ma-léc.

Đó là những tộc trưởng thuộc dòng Ê-li-pha trong đất Ê-đôm. Họ là cháu của A-đa.

17 Ru-ên, con Ê-sau, sinh ra các tộc trưởng sau đây: Na-hát, Xê-ra, Sam-ma, và Mích-xa.

Đó là những tộc trưởng thuộc dòng Ru-ên trong đất Ê-đôm. Họ là cháu của dòng vợ Ba-sê-mát của Ê-sau.

18 Ô-hô-li-ba-ma, vợ Ê-sau sinh ra các tộc trưởng sau đây: Giê-út, Gia-lam và Co-ra. Tất cả những tộc trưởng đó thuộc dòng Ô-hô-li-ba-ma, vợ Ê-sau, và là con gái của A-na. 19 Đó là các con trai của Ê-sau đều là tộc trưởng.

20 Sau đây là các con trai của Sê-ia, người Hô-rít, sinh sống trong xứ: Lô-tan, Sô-ban, Xi-bê-ôn, A-na, 21 Đi-sôn, Ê-xe, và Đi-san. Các con trai của Sê-ia làm tộc trưởng dân Hô-rít thuộc xứ Ê-đôm.

22 Các con trai của Lô-tan là Hô-ri và Hô-man. (Thim-na là em gái Lô-tan.)

23 Các con trai của Sô-ban là An-van, Ma-na-hát, Ê-banh, Sê-phô, và Ô-nam.

24 Các con trai của Xi-bê-ôn là Ai-gia và A-na. A-na là người tìm được các suối nước nóng trong sa mạc, khi đang chăn lạc đà cho cha mình.

25 Các con của A-na là Đi-sôn và Ô-hô-li-ba-ma, con gái của A-na.

26 Các con trai của Đi-sôn là Hem-đan, Ết-ban, Ít-ran, và Kê-ran.

27 Các con trai của Ê-xe là Binh-hanh, Xa-a-van và A-can.

28 Các con trai của Đi-san là U-xơ và A-ran.

29 Sau đây là tên các tộc trường người Hô-rít: Lô-tan, Sô-ban, Xi-bê-ôn, A-na, 30 Đi-sôn, Ê-xe, và Đi-san. Những người nầy là tộc trưởng của dân Hô-rít sống trong xứ Ê-đôm. 31 Sau đây là các vua cai trị xứ Ê-đôm trước khi dân Ít-ra-en có vua:

32 Bê-la con của Bê-ô là vua của Ê-đôm. Ông là người thành Đinh-ha-ba. 33 Khi Bê-la qua đời, Giô-báp con Xê-ra lên nối ngôi. Giô-báp người thành Bốt-ra. 34 Khi Giô-báp qua đời thì Hu-sam lên ngôi vua. Ông sinh ra ở miền đất của dân Thê-man. 35 Khi Hu-sam qua đời, Ha-đát con của Bê-đát lên ngôi. Ha-đát người thành A-vít và là vị vua đã đánh bại dân Mi-đi-an xứ Mô-áp. 36 Khi Ha-đát qua đời thì Sam-la lên ngôi. Ông người thành Mát-rê-ca. 37 Khi Sam-la qua đời thì Sa-un lên ngôi. Ông người thành Rê-hô-bốt nằm trên bờ sông. 38 Khi Sa-un qua đời thì Ba-anh Ha-nan, con trai của Ác-bo lên ngôi. 39 Khi Ba-anh Ha-nan con của Ác-bo qua đời thì Ha-đát lên ngôi. Ông người thành Bao. Vợ ông tên Mê-hê-ta-bên con gái Ma-trết, Ma-trết là con gái của Mê-xa-háp.

40 Sau đây là tên các tộc trưởng người Ê-đôm, liệt kê theo họ hàng và theo vùng, Tất cả đều là con cháu của Ê-sau: Thim-na, Anh-va, Giê-thết, 41 Ô-hô-li-ba-ma, Ê-la, Phi-nôn, 42 Kê-nát, Thê-man, Míp-xa, 43 Mác-đi-ên, và Y-ram. Họ đều là tộc trưởng xứ Ê-đôm. (Ê-sau là ông tổ của dân Ê-đôm.) Các gia tộc được liệt kê theo vùng họ định cư.

Mác 6

Chúa Giê-xu về thăm quê nhà(A)

Chúa Giê-xu rời nơi ấy trở về thăm quê nhà, có các môn đệ cùng đi. Đến ngày Sa-bát, Ngài vào hội đường dạy dỗ. Nhiều người nghe Ngài thì sững sờ hỏi nhau, “Ông ta học những điều nầy ở đâu? Ai cho ông ta sự khôn ngoan như thế? Ông ta lấy quyền ở đâu mà làm phép lạ? Ông ta chẳng qua chỉ là thợ mộc, con của Ma-ri và anh của Gia-cơ, Giô-xép, Giu-đa và Xi-môn. Còn chị em ông ta vẫn sống ở giữa chúng ta đây mà.” Cho nên họ bực dọc về Ngài.

Chúa Giê-xu bảo họ, “Nhà tiên tri nào cũng được khắp nơi kính trọng, chỉ trừ quê quán và họ hàng mình.” Cho nên Chúa Giê-xu không thể làm phép lạ ở đó được. Ngài chỉ đặt tay chữa lành một vài người bệnh thôi. Ngài lấy làm ngạc nhiên vì nhiều người chẳng có lòng tin gì cả. Rồi Chúa Giê-xu vào các làng khác trong vùng ấy để giảng dạy.

Chúa Giê-xu gởi các sứ đồ đi truyền giáo(B)

Ngài gọi mười hai môn đệ lại và chuẩn bị sai họ đi ra từng đôi để giảng đạo, đồng thời cho họ quyền trừ tà ma. Chúa Giê-xu căn dặn họ: “Đừng mang gì theo khi đi đường ngoài cây gậy. Đừng mang theo bánh mì, bao bị hoặc tiền trong túi. Hãy mang dép nhưng chỉ đem đủ đồ mặc mà thôi. 10 Khi các con vào nhà ai thì cứ ở đó cho tới khi ra đi. 11 Nếu dân chúng nơi nào không chịu tiếp đón hoặc nghe các con, thì hãy rời khỏi nơi đó, phủi bụi [a] nơi chân các con, để làm dấu cảnh cáo họ.”

12 Các sứ đồ đi ra giảng dạy và khuyên dân chúng ăn năn. 13 Họ đuổi quỉ, xức dầu ô-liu [b] và chữa lành nhiều người bệnh.

Vua Hê-rốt lầm tưởng Chúa Giê-xu là Giăng Báp-tít(C)

14 Vua Hê-rốt nghe đồn về Chúa Giê-xu, vì lúc ấy Ngài đã nổi danh. Vài người bảo, “Ông ta là Giăng Báp-tít, người đã sống lại từ trong kẻ chết nên mới có thể làm những phép lạ như thế nầy.”

15 Kẻ khác nói, “Ông ta là Ê-li.”

Người khác lại nói, “Ông ta là nhà tiên tri cũng như các tiên tri thời xưa.”

16 Khi Hê-rốt nghe vậy liền bảo, “Ta đã chém đầu Giăng, bây giờ ông ta đã sống lại từ trong đám người chết!”

Giăng Báp-tít bị giết

17 Số là Hê-rốt ra lệnh cho quân sĩ dưới quyền tống giam Giăng, để làm vừa lòng vợ là Hê-rô-đia. Bà nầy trước kia là vợ của Phi-líp, em Hê-rốt, nhưng Hê-rốt lại lấy bà. 18 Giăng đã can ngăn Hê-rốt, “Lấy vợ của em mình là không phải lẽ.” 19 Vì thế Hê-rô-đia thù Giăng và muốn giết ông, nhưng không được 20 vì Hê-rốt sợ Giăng nên tìm cách che chở ông ta. Hê-rốt biết Giăng là người tốt và thánh thiện. Càng nghe Giăng bao nhiêu, Hê-rốt càng khó chịu bấy nhiêu, thế mà vua vẫn thích nghe.

21 Nhưng cơ hội tốt đã đến để Hê-rô-đia giết Giăng. Vào dịp sinh nhật Hê-rốt, vua làm tiệc thết đãi các đại quan văn võ trong triều đình, cùng các nhân vật quan trọng miền Ga-li-lê. 22 Lúc con gái Hê-rô-đia vào nhảy múa, Hê-rốt và các khách dự tiệc rất thích.

Nên vua bảo cô gái, “Con muốn xin điều gì bây giờ cha cũng cho hết.” 23 Vua còn hứa thêm, “Xin cái gì cũng được—dầu cho xin nửa vương quốc của cha, cha cũng cho.”

24 Cô gái chạy vào hỏi mẹ, “Con xin cái gì bây giờ hả mẹ?”

Bà mẹ đáp, “Con hãy xin cái đầu của Giăng Báp-tít.”

25 Cô gái vội vàng trở vào thưa với vua, “Con muốn xin cái đầu của Giăng Báp-tít để trên mâm ngay bây giờ.”

26 Vua rất buồn rầu nhưng vì đã trót hứa, mọi khách dự tiệc đều nghe, nên vua không muốn từ chối điều cô gái xin. 27 Vua liền truyền lệnh cho một người lính đi mang đầu Giăng đến. Người lính đi chém đầu Giăng trong ngục 28 để trên mâm mang vào. Người lính đưa mâm cho cô gái, cô gái mang vào đưa cho mẹ. 29 Các môn đệ Giăng nghe tin ấy liền đến lấy xác ông đem đi chôn cất.

Thết đãi hơn năm ngàn người(D)

30 Các môn đệ nhóm lại quanh Chúa Giê-xu và thuật lại cho Ngài nghe những gì họ làm và dạy. 31 Dân chúng kẻ đến người đi tấp nập đến nỗi Chúa Giê-xu và các môn đệ không có thì giờ để ăn. Chúa Giê-xu bảo các môn đệ, “Thôi chúng ta hãy đi tìm chỗ nào vắng vẻ để nghỉ ngơi.”

32 Nên họ xuống thuyền đi đến chỗ vắng, xa quần chúng. 33 Nhưng nhiều người trông thấy thì biết, vì thế dân chúng từ đủ các tỉnh liền chạy bộ đến chỗ Ngài sắp tới và đến trước Chúa Giê-xu cùng các môn đệ. 34 Vừa tới nơi, Ngài thấy dân chúng đang đợi. Ngài cảm thương họ vì họ như chiên không có người chăn nên Chúa Giê-xu dạy dỗ họ nhiều điều.

35 Xế chiều các môn đệ đến thưa với Ngài, “Chỗ nầy vắng vẻ mà trời đã xế chiều rồi. 36 Xin thầy cho họ về để họ đi vào vùng quê và làng mạc quanh đây mua thức ăn.”

37 Nhưng Chúa Giê-xu đáp, “Các con phải cho họ ăn.”

Các môn đệ thưa, “Chúng con phải dùng nguyên một năm lương mới đủ tiền mua thức ăn cho chừng nầy người!”

38 Chúa Giê-xu hỏi họ, “Các con có bao nhiêu ổ bánh? Đi xem thử đi.”

Sau khi đã kiểm điểm họ trình, “Dạ có năm ổ bánh và hai con cá.”

39 Chúa Giê-xu bảo các môn đệ cho dân chúng ngồi từng nhóm trên cỏ xanh. 40 Họ liền ngồi từng nhóm năm chục, nhóm một trăm. 41 Chúa Giê-xu cầm năm ổ bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời tạ ơn Thượng Đế. Ngài bẻ bánh ra đưa cho các môn đệ phân phát cho dân chúng. Rồi Ngài cũng phát cá nữa. 42 Tất cả mọi người đều ăn uống no nê. 43 Các môn đệ gom được đầy mười hai giỏ bánh và cá thừa. 44 Trong số người ăn có hơn năm ngàn người đàn ông.

Chúa Giê-xu đi trên mặt nước(E)

45 Chúa Giê-xu liền bảo các môn đệ xuống thuyền, qua thành Bết-sai-đa ở bờ bên kia trước Ngài. Còn Ngài thì ở lại để giải tán dân chúng. 46 Sau khi họ về rồi, Chúa Giê-xu lên núi cầu nguyện.

47 Đêm xuống, thuyền đã đến giữa hồ rồi mà Chúa Giê-xu vẫn còn ở một mình trên bờ. 48 Ngài thấy các môn đệ chèo chống rất cực nhọc vì gặp gió ngược. Vào khoảng ba đến sáu giờ sáng, Chúa Giê-xu đi trên mặt nước đến với họ và Ngài định đi qua mặt thuyền. 49 Khi các môn đệ thấy Ngài đi trên mặt nước, thì tưởng thấy ma, nên la lên. 50 Người nào cũng nhìn thấy, nên sợ hoảng. Nhưng Chúa Giê-xu lập tức trấn an họ, “Đừng sợ, ta đây mà.” 51 Lúc Ngài bước vào thuyền với họ thì gió lặng. Các môn đệ vô cùng kinh ngạc. 52 Họ không hiểu ý nghĩa phép lạ về năm ổ bánh vì trí họ còn tối tăm.

Chúa Giê-xu chữa bệnh cho nhiều người(F)

53 Sau khi băng qua hồ thì họ đến bờ Ghê-nê-xa-rét rồi buộc thuyền tại đó. 54 Chúa Giê-xu vừa bước ra khỏi thuyền thì dân chúng nhận ra Ngài. 55 Quần chúng khắp nơi đổ xô đến, hễ nghe Ngài đi đâu là người ta khiêng những người bệnh nằm trên cáng đến đó. 56 Bất cứ chỗ nào Ngài đi, từ làng mạc, thành thị hay vùng quê, dân chúng cũng đều đưa những người bệnh đến đó, vào trong phố chợ. Họ nài nỉ xin được rờ ven áo Ngài. Hễ ai rờ đều được lành cả.

Gióp 2

Sa-tăng lại ra mắt Chúa

Một ngày khác các thiên sứ [a] đến trình diện CHÚA, Sa-tăng cũng có mặt. CHÚA hỏi Sa-tăng, “Ngươi ở đâu đến?”

Sa-tăng thưa, “Tôi đi lang thang đây đó trên mặt đất, dạo chỗ nầy chỗ kia.”

Rồi CHÚA hỏi Sa-tăng, “Ngươi có thấy Gióp tôi tớ của ta không? Trên thế gian không có ai như nó. Người thanh liêm chân thật, kính sợ Thượng Đế và tránh xa điều ác. Dù ngươi xúi ta làm hại người vô cớ, nhưng người vẫn toàn thiện.”

Sa-tăng đáp, “Lấy da đền da [b]! Ai có của thì đổi lấy mạng mình. Nhưng Ngài thử giơ tay ra đụng đến xương thịt người xem, người sẽ nguyền rủa Ngài tận mặt.”

CHÚA bảo Sa-tăng, “Được rồi. Gióp ở trong tay ngươi nhưng ngươi không được đụng đến mạng sống người.”

Sa-tăng liền lui ra khỏi mặt CHÚA. Nó tạo ra những vết lở lói đau nhức trên thân thể Gióp, từ đỉnh đầu cho đến gót chân. Gióp dùng một miếng sành để gãi. Ông ngồi trong tro khốn khổ lắm. Vợ Gióp hỏi, “Sao mà ông ráng toàn thiện chi vậy? Hãy nguyền rủa Thượng Đế xong chết phứt cho rồi!”

10 Gióp đáp, “Bà nói giống người ngu. Chẳng lẽ điều gì tốt Thượng Đế cho thì lấy còn điều xấu thì không?” Dù gặp cảnh như vậy, Gióp cũng không phạm tội trong lời nói.

Ba bạn của Gióp đến thăm

11 Gióp có ba người bạn: Ê-li-pha người Thê-man, Binh-đát người Su-ha và Xô-pha người Na-a-mát. Khi họ nghe Gióp gặp tai ương liền đồng ý gặp nhau đến thăm ông. Họ muốn tỏ niềm lo âu và an ủi Gióp. 12 Họ nhìn thấy Gióp từ xa nhưng suýt không nhận ra vì ông trông khác hẳn trước. Họ lớn tiếng khóc, xé quần áo và phủ bụi lên đầu tỏ dấu đau xót. 13 Rồi họ ngồi dưới đất cùng với Gióp bảy ngày bảy đêm. Không ai nói tiếng nào với ông vì thấy tình cảnh của Gióp thật vô cùng bi đát.

Rô-ma 6

Chết trong tội lỗi mà sống cho Chúa Cứu Thế

Anh chị em có nghĩ rằng chúng ta nên tiếp tục sống trong tội lỗi để ân phúc Thượng Đế thêm nhiều không? Không được! Chúng ta đã chết vì nếp sống cũ của bản tính tội lỗi, thì chẳng lẽ lại cứ mãi sống trong tội lỗi sao? Anh chị em quên rằng khi chúng ta chịu lễ báp-têm là đã trở thành một phần của thân thể Đấng Cứu Thế Giê-xu rồi sao? Chúng ta dự phần trong cái chết Ngài qua lễ báp-têm. Khi chúng ta chịu báp-têm, chúng ta được chôn với Chúa Cứu Thế và dự phần trong cái chết của Ngài. Cho nên như Chúa Cứu Thế đã sống lại từ kẻ chết qua quyền năng kỳ diệu của Cha thế nào, chúng ta cũng sẽ sống một đời mới như thế.

Vì Chúa Cứu Thế chịu chết, chúng ta đồng chết với Ngài, nên chúng ta cũng sẽ đồng sống lại với Ngài từ kẻ chết giống như Ngài. Chúng ta biết rằng đời cũ của chúng ta đã chết với Chúa Cứu Thế trên thập tự giá, để bản tính tội lỗi không còn cầm quyền và chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Vì ai đã chết là thoát khỏi gông cùm tội lỗi.

Nếu chúng ta chết với Chúa Cứu Thế, thì chúng ta biết mình cũng sẽ sống lại với Ngài. Chúa Cứu Thế đã sống lại từ kẻ chết, chúng ta biết rằng Ngài không thể chết nữa. Sự chết hiện nay chẳng còn quyền gì trên Ngài. 10 Thật vậy, khi Chúa Cứu Thế chịu chết thì Ngài đánh bại quyền lực của tội lỗi một lần đủ cả. Bây giờ Ngài đã nhận sự sống mới nên Ngài sống cho Thượng Đế. 11 Cũng thế, anh chị em hãy xem mình như chết về quyền lực của tội lỗi nhưng sống với Thượng Đế qua Chúa Cứu Thế Giê-xu.

12 Cho nên đừng để tội lỗi thống trị đời sống anh chị em trên đất đặng làm theo ý muốn con người xác thịt của mình. 13 Đừng hiến dâng chi thể mình mà phục vụ tội lỗi, làm công cụ cho điều ác. Trái lại hãy hiến dâng chính mình cho Thượng Đế như là người đã chết mà nay được sống lại. Hãy hiến thân thể mình cho Thượng Đế, để phục vụ điều lành. 14 Tội lỗi không còn thống trị anh chị em nữa, vì anh chị em không còn ở dưới luật pháp nhưng ở dưới ân phúc của Thượng Đế.

Hãy làm tôi mọi cho sự công chính

15 Thế thì chúng ta phải làm sao? Chẳng lẽ vì bây giờ chúng ta không còn ở dưới luật pháp mà ở dưới ân phúc thì chúng ta cứ phạm tội sao? Không được! 16 Chắc hẳn anh chị em biết rằng khi mình chịu làm tôi mọi cho người nào thì phải vâng phục người ấy. Người mà mình vâng phục là chủ mình. Anh chị em có thể đi theo tội lỗi để dẫn đến cái chết về mặt thiêng liêng hoặc vâng theo Thượng Đế là Đấng có thể khiến anh chị em hòa thuận với Ngài. 17 Trước kia anh chị em làm nô lệ cho tội lỗi—tội lỗi thống trị anh chị em. Nhưng tạ ơn Thượng Đế, anh chị em đã hoàn toàn vâng theo những điều được dạy bảo. 18 Đã được giải thoát khỏi tội lỗi, bây giờ anh chị em làm nô lệ cho điều thiện. 19 Tôi phải dùng ví dụ nầy vì hơi khó cho anh chị em hiểu. Nếu trước kia anh chị em hiến dâng thân thể mình làm nô lệ cho tội lỗi và điều ác; chỉ sống cho điều ác thôi. Cũng thế, nay anh chị em hãy hiến thân thể mình để làm tôi cho điều thiện. Nghĩa là anh chị em chỉ sẽ sống cho Thượng Đế mà thôi.

20 Trước kia anh chị em làm nô lệ cho tội lỗi nên điều thiện không quản trị anh chị em. 21 Trước kia anh chị em làm điều ác, đến nỗi ngày nay anh chị em vẫn còn xấu hổ về việc ấy. Những điều ác đó chỉ dẫn đến sự chết. 22 Nhưng nay anh chị em đã thoát khỏi tội lỗi, và trở thành nô lệ cho Thượng Đế để sống cho Ngài và nhận sự sống đời đời. 23 Ai phạm tội thì phải lãnh tiền công của tội lỗi—đó là sự chết. Nhưng quà tặng của Thượng Đế là sự sống đời đời trong Đấng Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta.

Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)

Copyright © 2010 by World Bible Translation Center