Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)
Version
Giô-sua 22

Ba chi tộc trở về quê quán

22 Giô-suê gọi tất cả người Ru-bên, người Gát và người Ma-na-xe phía đông lại, bảo họ rằng, “Các anh đã làm mọi điều Mô-se, tôi tớ Chúa dặn bảo. Các anh cũng đã làm theo mọi điều tôi căn dặn. Lâu nay, các anh đã yểm trợ những người Ít-ra-en khác. Các anh cũng đã cẩn thận vâng theo mọi điều mà Chúa, là Thượng Đế của các anh, truyền bảo. Chúa là Thượng Đế đã ban hòa bình cho các anh em khác như Ngài đã hứa, nên bây giờ các anh có thể trở về nhà mình, về với sản nghiệp mà Mô-se, tôi tớ Chúa, đã cấp cho các anh phía đông sông Giô-đanh. Nhưng các anh phải thận trọng vâng theo những lời dạy bảo và luật lệ mà Mô-se, tôi tớ Chúa, đã truyền cho: Tức là phải yêu mến Chúa, Thượng Đế của các anh, vâng theo lời Ngài truyền dặn, luôn luôn đi theo Ngài và hết lòng phục vụ Ngài.”

Rồi Giô-suê chia tay tạm biệt, còn họ thì lên đường trở về quê quán. Mô-se đã cấp đất vùng Ba-san cho chi tộc Ma-na-xe phía đông còn Giô-suê thì cấp đất phía tây sông Giô-đanh cho chi tộc Ma-na-xe phía tây. Ngoài ra khi Giô-suê cho họ trở về đất đai thì ông chúc phước cho họ. Ông bảo, “Anh em hãy trở về với gia đình và sản nghiệp mình. Anh em có đông gia súc, nhiều đồ bạc, vàng, đồng, sắt và vô số áo quần đẹp.

Ngoài ra anh em cũng đã chiếm được nhiều tài sản của kẻ thù, nên hãy nhớ san sẻ những của đó với nhau.”

Các người thuộc chi tộc Ru-bên, Gát và Ma-na-xe phía đông liền từ giã các người Ít-ra-en khác ở Si-lô thuộc Ca-na-an và trở về Ghi-lê-át. Đó là phần đất của họ do Mô-se cấp cho theo như Chúa đã truyền dặn.

10 Người Ru-bên, Gát và Ma-na-xe phía đông đi đến Ghê-li-lốt, gần sông Giô-đanh trong đất Ca-na-an và lập một bàn thờ thật đẹp tại đó. 11 Các chi tộc Ít-ra-en khác đang còn ở tại Si-lô nghe nói về đền thờ nầy, mà ba chi tộc đã lập tại ranh giới Ca-na-an ở Ghê-li-lô, gần sông Giô-đanh bên phía dân Ít-ra-en. 12 Toàn dân Ít-ra-en liền nổi giận. Họ họp nhau lại định đánh ba chi tộc ấy.

13 Người Ít-ra-en sai Phi-nê-ha, con của Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, đến Ghi-lê-át hỏi người Ru-bên, người Gát và Ma-na-xe phía đông. 14 Mười tộc trưởng, đại diện mười chi tộc đang ở Si-lô, cũng được phái đến đó. Mỗi người này là trưởng dòng họ của Ít-ra-en.

15 Các tộc trưởng đến Ghi-lê-át hỏi người Ru-bên, người Gát và Ma-na-xe phía đông như sau: 16 “Toàn dân Ít-ra-en hỏi họ: Tại sao các anh tự ý xây bàn thờ cho mình, phản nghịch lại Thượng Đế của Ít-ra-en? Các anh thừa biết rằng làm vậy là vi phạm luật của Ngài rồi. 17 Vụ Phê-ô đã không cảnh cáo các anh sao? Cho đến hôm nay, chúng ta vẫn còn lãnh hậu quả của tội lỗi đó. Thượng Đế đã trừng phạt khiến nhiều người Ít-ra-en bị đau ốm. 18 Vậy mà bây giờ các anh còn dám phản nghịch Chúa, không chịu theo Ngài sao? Nếu các anh nghịch lại Chúa hôm nay, thì ngày mai chắc chắn Chúa sẽ nổi giận cùng cả Ít-ra-en đó.

19 Nếu đất của các anh không sạch thì dời qua ở trong đất của chúng tôi nơi có Lều của Chúa ngự. Chúng tôi bằng lòng chia đất với các anh, nhưng chớ có phản nghịch Chúa bằng cách dựng một đền thờ khác cho Chúa, Thượng Đế của chúng ta.

20 Vụ A-can, con trai Xê-ra, không vâng phục lệnh truyền về các vật phải tiêu diệt, các anh còn nhớ không? Chỉ một người phạm luật Chúa mà cả dân Ít-ra-en bị trừng phạt. A-can chết vì tội của hắn đã đành, mà nhiều người khác cũng bị chết lây nữa.”

21 Các người Ru-bên, Gát và Ma-na-xe phía đông phân trần rằng, 22 “Chúa là Thượng Đế của chúng ta [a]! Chúa là Thượng Đế của chúng ta! Ngài biết và chúng tôi muốn các anh cũng biết nữa. Nếu chúng tôi làm bậy, các anh có thể giết chúng tôi. 23 Nếu chúng tôi xây bàn thờ nầy để quay mặt khỏi Thượng Đế, hay dâng của lễ thiêu trên đó, thì nguyện Chúa phạt chúng tôi! 24 Đó không phải là mục đích của chúng tôi khi xây bàn thờ nầy. Chúng tôi chỉ sợ rằng ngày nào đó trong tương lai, con cháu các anh không còn nhìn nhận rằng chúng tôi thuộc về quốc gia nầy nữa. Chúng rất có thể bảo con cháu chúng tôi, ‘Các anh không thể thờ phụng Chúa, Thượng Đế của Ít-ra-en. 25 Chúa đã dùng sông Giô-đanh làm ranh giới để phân cách chúng ta với những người Ru-bên và Gát. Vì thế các anh không thể thờ phụng Chúa!’ Cho nên chúng tôi sợ rằng con cháu các anh sẽ ngăn cản không cho con cháu chúng tôi thờ phụng Chúa.

26 Vì thế mà chúng tôi dựng bàn thờ nầy, không phải để dâng của lễ thiêu hay các của lễ hi sinh khác đâu. 27 Thật ra thì bàn thờ nầy chỉ để làm bằng chứng giữa các anh và chúng tôi cùng con cháu chúng tôi sẽ sinh ra sau nầy, để chúng tôi được phép thờ phụng Chúa bằng của lễ thiêu, của lễ ngũ cốc, và của lễ thân hữu. Và cũng để cho con cháu các anh không thể bảo con cháu chúng tôi rằng, ‘Các anh không có phần gì trong Chúa cả.’ 28 Trong tương lai nếu con cháu quí vị nói như thế thì con cháu chúng tôi có thể nói rằng, ‘Hãy nhìn bàn thờ mà tổ tiên chúng tôi đã xây. Giống y như bàn thờ của Chúa, nhưng không phải dùng để dâng sinh tế mà chỉ để chứng minh rằng chúng tôi là một phần của Ít-ra-en.’

29 Thật tình, chúng tôi không có ý chống nghịch Chúa hay lìa bỏ Ngài bằng cách xây bàn thờ để dâng của lễ thiêu, của lễ ngũ cốc hay các của lễ hi sinh khác. Chúng tôi chỉ biết có một bàn thờ thật duy nhất cho Chúa, Thượng Đế của chúng tôi, ở trước cửa Lều Thánh mà thôi.”

30 Khi Phi-nê-ha, thầy tế lễ và mười người lãnh đạo kia nghe người Ru-bên, người Gát và chi tộc Ma-na-xe miền đông giải thích như thế thì họ nguôi giận. 31 Phi-nê-ha, con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, bảo, “Bây giờ tôi biết rằng Chúa có ở với chúng tôi và rằng các anh đã tránh, không để Chúa trừng phạt dân Ít-ra-en.”

32 Rồi Phi-nê-ha và những người lãnh đạo từ giã người Ru-bên, người Gát ở Ghi-lê-át, trở về Ca-na-an thuật lại cho dân Ít-ra-en biết rõ câu chuyện. 33 Mọi người đều hài lòng và cảm tạ Thượng Đế. Họ liền bỏ ý định đánh người Ru-bên, người Gát hoặc tàn phá vùng đất đai đó.

34 Vì thế người Ru-bên và người Gát đặt tên bàn thờ là Bằng Chứng Chúng Ta Tin Chúa Là Thượng Đế.

Công Vụ Các Sứ đồ 2

Thánh Linh ngự xuống

Vào ngày lễ Thất Tuần, họ đang họp chung một chỗ.

Bỗng nhiên có tiếng như gió mạnh thổi ào ào từ trời đầy khắp phòng nơi họ đang ngồi. Họ thấy các ngọn lửa tản ra đậu trên mỗi người. Tất cả được đầy Thánh Linh và bắt đầu nói các thứ ngôn ngữ khác theo quyền năng Thánh Linh cho.

Lúc ấy tại Giê-ru-sa-lem cũng có mấy người Do-thái sùng đạo đến từ mọi nước trên thế giới. Khi nghe tiếng ồn ào thì nhiều người chạy lại. Ai nấy đều ngạc nhiên vì mỗi người nghe các tín hữu nói tiếng của chính nước mình. Họ sửng sốt hỏi nhau, “Nầy, có phải tất cả mấy người đang nói đó đều là người Ga-li-lê [a] không? Vậy tại sao chúng ta nghe họ nói tiếng của nước chúng ta? Chúng ta thuộc nhiều nơi khác nhau: Miền Ba-thia, Mê-đi, Ê-lam, Mê-sô-bô-ta-mi, Giu-đia, Cáp-ba-đốc, Bôn-tu, Á-châu, 10 Phi-ri-gi, Băm-phi-lia, Ai-cập, các miền thuộc Ly-bi gần Xy-ren, La-mã 11 gồm người Do-thái và những người đã trở thành dân Do-thái, miền Cơ-rết và Á-rập. Chúng ta nghe họ thuật lại những việc lớn mà Thượng Đế đã làm bằng chính ngôn ngữ của nước chúng ta!” 12 Mọi người đều ngạc nhiên và hoang mang hỏi nhau, “Việc nầy là nghĩa làm sao?” 13 Nhưng có kẻ khác nhạo cười bảo, “Họ đang say vì uống quá nhiều rượu đó.”

Phia-rơ nói chuyện với dân chúng

14 Nhưng Phia-rơ đứng lên cùng với mười một sứ đồ lớn tiếng nói với dân chúng rằng, “Thưa đồng bào Do-thái và tất cả các người có mặt ở Giê-ru-sa-lem! Xin nghe điều tôi sắp nói đây. 15 Những người nầy không phải say rượu như các anh chị em tưởng đâu vì bây giờ mới có chín giờ sáng thôi! 16 Nhà tiên tri Giô-ên đã viết về những việc xảy ra hôm nay như sau:

17 ‘Thượng Đế phán:
Vào những ngày cuối cùng,
    ta sẽ đổ Thánh Linh ta trên mọi người.
Con trai và con gái các ngươi sẽ nói tiên tri.
    Người trẻ tuổi sẽ thấy dị tượng,
    còn người lớn tuổi sẽ thấy chiêm bao.
18 Lúc ấy ta sẽ đổ Thánh Linh
    trên các đầy tớ nam và nữ,
    họ sẽ nói tiên tri.
19 Ta sẽ làm phép lạ trên trời và dưới đất:
    máu, lửa và khói đen.
20 Mặt trời sẽ tối sầm lại,
    mặt trăng hóa đỏ như máu,
    trước ngày vinh hiển lớn lao của Chúa đến.
21 Còn ai kêu xin Chúa thì sẽ được cứu.’ (A)

22 Hỡi anh chị em Ít-ra-en, hãy nghe: Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét là Đấng được Thượng Đế chọn qua các phép lạ, dấu kỳ mà Ngài làm. Tất cả anh chị em đều rõ chuyện nầy, vì mọi việc đều đã xảy ra ngay đây giữa vòng anh chị em. 23 Chúa Giê-xu đã được ban cho anh chị em nhưng anh chị em đã dùng tay của những kẻ không biết luật pháp để xử tử Ngài bằng cách đóng đinh Ngài vào thập tự giá. Nhưng đó là chương trình Thượng Đế đã định từ lâu; Ngài biết trước việc ấy. 24 Thượng Đế đã khiến Chúa Giê-xu sống lại từ kẻ chết, giải thoát Ngài khỏi khổ đau của sự chết vì sự chết không thể kềm giữ Ngài. 25 Vua Đa-vít đã nói về Ngài như sau:

‘Tôi nhìn thấy Chúa trước mặt tôi luôn.
Vì Ngài ở bên tôi,
    nên tôi sẽ không bị tổn hại.
26 Cho nên lòng tôi vui mừng, môi miệng tôi hớn hở,
    thân thể tôi nuôi hi vọng,
27 vì Ngài không để tôi trong mồ mả [b].
    Ngài không để Đấng Thánh Ngài bị mục nát trong đó.
28 Ngài sẽ chỉ cho tôi con đường sự sống.
    Được ở với Ngài lòng tôi tràn đầy vui mừng.’ (B)

29 Thưa anh chị em, tôi phải nói thật rằng Đa-vít, tổ tiên chúng ta đã chết và được chôn. Mồ mả của ông vẫn còn ở giữa chúng ta hôm nay. 30 Ông là nhà tiên tri và biết Thượng Đế đã hứa với ông rằng Ngài sẽ chọn một người từ dòng họ Đa-vít để làm vua giống như ông [c] vậy. 31 Vì biết trước việc ấy nên Đa-vít nói về việc Chúa Cứu Thế sống lại từ kẻ chết như sau:

‘Ngài không bị bỏ quên trong mồ mả.
    Thân thể Ngài không bị mục nát trong đó.’

32 Cho nên Chúa Giê-xu là Đấng mà Thượng Đế khiến sống lại từ kẻ chết. Còn chúng tôi đây là những người chứng kiến các việc ấy. 33 Chúa Giê-xu đã được tiếp lên thiên đàng và hiện đang ngồi bên phải Thượng Đế. Cha đã ban Thánh Linh cho Chúa Giê-xu như Ngài hứa. Cho nên Chúa Giê-xu đã đổ Thánh Linh ra, như anh chị em nghe thấy hôm nay. 34 Đa-vít không phải là người được tiếp lên thiên đàng nhưng ông nói:

‘Chúa phán cùng Chúa tôi,
Hãy ngồi bên phải ta,
35 Cho đến khi ta đặt các kẻ thù ngươi
    dưới quyền quản trị của ngươi. [d](C)

36 Cho nên, toàn dân Ít-ra-en cần biết điều nầy: Thượng Đế đã lập Chúa Giê-xu—Đấng mà anh chị em đã đóng đinh vào thập tự giá—làm Chúa và Đấng Cứu Thế.”

37 Khi dân chúng nghe vậy thì họ cảm thấy trong lòng bị cáo trách nên hỏi Phia-rơ và các sứ đồ, “Bây giờ chúng tôi phải làm sao?”

38 Phia-rơ bảo họ, “Hãy ăn năn, mỗi người trong anh chị em hãy chịu lễ báp-têm nhân danh Chúa Giê-xu để được tha tội. Rồi anh chị em sẽ nhận được ân tứ của Thánh Linh. 39 Vì lời hứa nầy dành cho anh chị em, cho con cái anh chị em và cho những kẻ ở xa nghĩa là cho những người mà Thượng Đế đã gọi riêng cho Ngài.”

40 Phia-rơ cũng dùng nhiều lời nữa để khuyên răn và khích lệ họ. Ông khuyên, “Hãy cứu mình khỏi những gian ác của người đời nay!” 41 Sau đó những người tin nhận lời giảng Phia-rơ đều chịu lễ báp-têm. Trong ngày ấy có khoảng ba ngàn người gia nhập vào số các tín hữu. 42 Họ dùng thì giờ học hỏi lời dạy của các sứ đồ, san sẻ của cải, bẻ bánh [e] và cầu nguyện chung với nhau.

Các tín hữu san sẻ của cải

43 Các sứ đồ làm nhiều phép lạ và dấu kỳ, ai nấy đều kính sợ Thượng Đế. 44 Mọi tín hữu đều họp chung nhau và chia xẻ mọi điều mình có. 45 Họ bán đất đai và của cải rồi chia tiền ra, theo nhu cầu mỗi người. 46 Mỗi ngày các tín hữu họp chung nhau trong đền thờ. Họ dùng bữa tại nhà mình, vui lòng san sẻ thức ăn với nhau. 47 Họ ca ngợi Thượng Đế và được dân chúng mến chuộng. Mỗi ngày Chúa thêm người được cứu vào đoàn thể các tín hữu.

Giê-rê-mi-a 11

Giao Ước bị phá

11 Đây là lời CHÚA phán cùng Giê-rê-mi: “Hãy nghe những lời của giao ước nầy rồi thuật lại cho dân cư Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Hãy bảo cho họ biết rằng CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en phán: ‘Khốn cho kẻ nào không vâng theo những lời của giao ước nầy mà ta đã lập với tổ tiên các ngươi khi ta mang họ ra khỏi Ai-cập. Ai-cập là một lò lửa hừng luyện sắt!’ Ta bảo họ, ‘Hãy vâng lời và làm theo mọi mệnh lệnh ta thì các ngươi sẽ là dân ta, còn ta sẽ làm Thượng Đế của các ngươi.

Ta sẽ giữ lời hứa ta cùng tổ tiên các ngươi rằng ta sẽ ban cho họ một xứ phì nhiêu.’ Và hiện nay các ngươi đang sống trong xứ đó.”

Tôi thưa, “Lạy CHÚA, A-men.”

CHÚA phán cùng tôi, “Hãy loan báo điều nầy trong các thị trấn Giu-đa và các đường phố Giê-ru-sa-lem: Hãy nghe những lời của giao ước nầy và làm theo. Ta đã khuyên răn tổ tiên các ngươi phải vâng lời ta khi ta mang họ ra khỏi Ai-cập. Ta khuyên đi khuyên lại nhiều lần cho đến ngày nay: ‘Hãy vâng lời ta!’ Nhưng tổ tiên các ngươi không thèm vâng lời ta. Họ ương ngạnh và nhất định làm theo lòng gian ác mình. Vì thế ta giáng những điều nguyền rủa trong giao ước nầy trên họ. Ta truyền dặn họ vâng theo giao ước nhưng họ không nghe.”

Rồi CHÚA phán cùng tôi, “Ta biết dân Giu-đa và dân Giê-ru-sa-lem đang âm mưu. 10 Chúng đã trở lại phạm những tội giống như tổ tiên mình. Tổ tiên chúng đã không nghe lời ta, trái lại đi thờ lạy các thần khác. Nhà Ít-ra-en và Giu-đa đã phá giao ước ta lập với tổ tiên chúng.”

11 Nên CHÚA phán như sau: “Hãy để ý đây. Ta sẽ sớm mang thảm họa trên dân Giu-đa, họ sẽ không thoát được. Họ sẽ kêu cứu cùng ta nhưng ta sẽ không thèm nghe. 12 Dân sống trong các thị trấn Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem sẽ cầu nguyện cùng các thần tượng mà chúng nó đã đốt hương nhưng các thần đó không giúp gì được khi thảm họa đến.

13 Hỡi dân Giu-đa, các ngươi có bao nhiêu thị trấn thì có bấy nhiêu thần. Các ngươi đã xây số bàn thờ nhiều bằng số đường phố của Giê-ru-sa-lem để đốt hương cho thần Ba-anh gớm ghiếc.”

14 Còn về phần ngươi, hỡi Giê-rê-mi, chớ cầu khẩn cho dân nầy, đừng kêu khóc cho chúng nó hay xin ân huệ nào giùm cho chúng. Ta sẽ không nghe khi chúng nó kêu xin cùng ta trong lúc khốn cùng.

15 “Giu-đa yêu dấu của ta hiện đang làm gì trong đền thờ ta
    khi nó lập nhiều mưu ác?
Ngươi cho rằng những sinh tế
    sẽ giúp ngươi tránh khỏi trừng phạt sao?
Khi ngươi làm ác thì ngươi mãn nguyện lắm.”
16 CHÚA gọi ngươi là “cây ô-liu rậm lá
    có trái xinh đẹp, hình dạng tốt tươi.”
Nhưng qua một cơn giông ào ạt,
    thì Ngài sẽ thiêu đốt nó,
rồi bao nhiêu nhánh nó đều sẽ bị cháy tiêu [a].
17 CHÚA Toàn Năng, Đấng đã trồng ngươi,
    loan báo rằng thảm họa sẽ đến trên ngươi.
Vì nhà Ít-ra-en và Giu-đa đã làm ác,
    đốt hương cho Ba-anh và chọc giận Ngài.

Âm mưu nghịch Giê-rê-mi

18 CHÚA cho tôi biết những người ở A-na-thốt [b] âm mưu hại tôi. Vì Ngài cho tôi biết âm mưu của họ nên tôi biết họ đang nghịch tôi. 19 Phần tôi, tôi như con cừu non chờ bị làm thịt. Tôi chẳng biết họ âm mưu hại tôi rằng:

“Chúng ta hãy đốn cây và trái luôn.
    Chúng ta hãy giết hắn,
    để không ai còn nhớ đến hắn nữa.”
20 Nhưng lạy CHÚA Toàn Năng,
    Ngài là quan án công minh.
Ngài biết thử lòng và trí loài người.
    Tôi sẽ trình bày lý lẽ tôi cùng Ngài,
để Ngài trừng phạt chúng thật đích đáng.

21 Cho nên CHÚA phán về những người ở A-na-thốt âm mưu giết Giê-rê-mi là kẻ nói rằng, “Đừng nói tiên tri nhân danh CHÚA nữa, nếu không chúng ta sẽ giết ngươi đó!” 22 CHÚA Toàn Năng phán như sau: “Ta sẽ sớm trừng phạt những người ở A-na-thốt. Các trai tráng chúng nó sẽ chết trong chiến tranh. Con trai con gái chúng nó sẽ chết đói. 23 Sẽ không ai trong thành A-na-thốt sống sót vì ta sẽ giáng một đại họa đến cho chúng nó vào năm đó.”

Ma-thi-ơ 25

Ngụ ngôn về mười cô phù dâu

25 “Lúc ấy Nước Trời cũng ví như mười cô phù dâu mang đèn theo để đi đón chàng rể. Trong số ấy có năm cô dại, năm cô khôn. Năm cô dại mang đèn theo nhưng không mang thêm dầu dự trữ. Năm cô khôn mang đèn và mang thêm dầu dự trữ trong bình. Vì chú rể đến trễ nên các cô buồn ngủ và ngủ gục hết.

Đến nửa đêm, có tiếng kêu, ‘Chú rể đến! Hãy ra tiếp đón người!’

Tất cả các cô đều vội vàng thức dậy chuẩn bị đèn. Năm cô dại nài nỉ năm cô khôn, ‘Các chị làm ơn chia chúng tôi ít dầu, vì đèn chúng tôi sắp tắt.’

Các cô khôn đáp, ‘Không được đâu, dầu chúng tôi đâu có đủ cho chúng tôi và các chị. Thôi các chị chịu khó đi đến người bán dầu mà mua.’

10 Trong khi năm cô dại đi mua dầu thì chú rể đến. Các cô khôn sẵn sàng đi với chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng và khoá cửa lại.

11 Lát sau các cô dại trở về kêu cửa, ‘Chú rể ơi, mở cửa cho chúng tôi vào với!’

12 Nhưng chú rể trả lời, ‘Tôi bảo thật, tôi không biết các chị là ai.’

13 Cho nên phải sẵn sàng, vì các con không biết ngày giờ nào Con Người sẽ đến.

Ngụ ngôn về ba người đầy tớ(A)

14 Nước Trời giống như một người kia sắp đi xa. Trước khi lên đường, ông gọi các đầy tớ lại dặn dò chúng nó trông nom cửa nhà trong khi ông đi vắng. 15 Ông giao cho một đứa năm túi vàng [a], đứa kia hai túi, đứa khác một túi, tùy khả năng mỗi đứa. Rồi ông ra đi. 16 Người đầy tớ có năm túi vàng liền đi kinh doanh và làm lợi ra thêm năm túi nữa. 17 Người đầy tớ với hai túi vàng cũng thế. Nó đi ra kinh doanh làm lợi thêm hai túi nữa. 18 Còn đứa nhận được một túi thì đi đào lỗ dưới đất chôn giấu vàng của chủ.

19 Mãi lâu ngày ông chủ về, gọi mấy người đầy tớ lại khai trình, xem chúng nó làm ăn ra sao với số vàng của mình. 20 Người đầy tớ có năm túi vàng mang vào năm túi nữa trình chủ, ‘Thưa chủ, chủ giao cho tôi năm túi, tôi làm lợi ra được năm túi nữa.’

21 Chủ khen, ‘Giỏi. Anh là đầy tớ tốt và trung thành. Vì anh chứng tỏ đáng tin cậy trong việc nhỏ, ta sẽ cho anh quản lý những việc lớn. Hãy đến chung hưởng niềm vui với ta.’

22 Đến lượt người đầy tớ nhận hai túi vàng vào trình, ‘Thưa chủ, chủ giao cho tôi hai túi vàng, tôi làm lợi được hai túi nữa.’

23 Chủ khen, ‘Giỏi. Anh là đầy tớ tốt và trung thành. Anh đáng tin cậy trong việc nhỏ, ta sẽ cho anh quản lý những việc lớn. Hãy đến chung hưởng niềm vui với ta.’

24 Sau đó người đầy tớ có một túi vàng vào trình, ‘Thưa chủ, tôi biết chủ rất khó tính. Chủ gặt thứ mình không trồng, hái nơi mình không gieo. 25 Tôi sợ nên đem giấu vàng của chủ dưới đất. Bây giờ túi vàng của chủ đây.’

26 Ông chủ mắng, ‘Mầy là đứa đầy tớ độc ác và biếng nhác! Mầy bảo mầy biết ta gặt thứ mình không trồng, hái chỗ mình không gieo. 27 Đáng lý ra mầy phải gởi vàng ta vào ngân hàng để khi ta về sẽ thu lại cả vốn lẫn lời.’

28 Chủ liền bảo mấy người đầy tớ kia, ‘Lấy túi vàng của thằng nầy đem cho đứa có mười túi vàng. 29 Người nào có nhiều thì được cho thêm để có dư còn người nào có ít thì lại bị lấy luôn phần đã có.’ 30 Rồi ông chủ ra lệnh, ‘Bắt tên đầy tớ vô ích nầy ném ra ngoài chỗ tối tăm, nơi người ta khóc lóc và nghiến răng vì đau đớn.’

Vua sẽ xét xử mọi người

31 Con Người sẽ trở lại trong vinh quang cùng với các thiên sứ. Ngài sẽ làm Vua ngự trên ngôi. 32 Mọi dân tộc trên thế giới sẽ nhóm họp trước mặt Ngài. Ngài sẽ phân họ ra làm hai nhóm, như người chăn chia chiên với dê riêng ra. 33 Ngài sẽ để chiên bên phải và dê bên trái.

34 Rồi Ngài sẽ nói với những người bên phải rằng, ‘Hãy lại đây, những người được Cha ta ban phước! Hãy nhận lãnh nước mà Thượng Đế đã dành cho các ngươi từ lúc tạo thành trời đất. 35 Vì khi ta đói, các ngươi cho ta ăn. Ta khát, các ngươi cho ta uống. Ta cô đơn và xa nhà các ngươi tiếp rước ta. 36 Ta không có quần áo, các ngươi mặc cho ta. Ta đau, các ngươi chăm sóc ta. Ta bị tù các ngươi viếng thăm ta.’

37 Lúc ấy những người nhân đức sẽ hỏi, ‘Thưa Chúa, lúc nào chúng tôi thấy Chúa đói mà cho Ngài ăn, khát mà cho Ngài uống? 38 Khi nào chúng tôi thấy Ngài cô đơn xa nhà mà mời Ngài vào trọ nhà chúng tôi? Còn khi nào chúng tôi thấy Ngài không quần áo mà mặc cho Ngài? 39 Khi nào chúng tôi thấy Ngài đau hoặc bị tù mà chăm sóc Ngài?’

40 Vua sẽ trả lời, ‘Ta bảo thật, điều gì các ngươi làm cho một người rất hèn mọn nầy của ta [b] tức là đã làm cho ta.’

41 Sau đó Vua sẽ bảo với những người bên trái, ‘Hãy đi khuất mắt ta, những người bị Thượng Đế nguyền rủa. Hãy đi vào lửa đời đời đã được chuẩn bị cho ma quỉ và các thiên sứ của nó. 42 Ta đói, các ngươi không cho ta ăn. Ta khát các ngươi không cho ta uống. 43 Ta cô đơn và xa nhà các ngươi không thèm tiếp ta vào nhà. Ta không có áo quần các ngươi không mặc cho ta. Ta đau và bị tù các ngươi không thăm viếng và chăm sóc.’

44 Rồi mấy người đó sẽ hỏi, ‘Thưa Chúa lúc nào chúng tôi thấy Chúa đói khát, cô đơn, xa nhà, không quần áo hoặc đau ốm hay bị tù mà không chăm sóc Ngài?’

45 Vua sẽ trả lời, ‘Ta bảo thật, hễ các ngươi không làm điều ấy cho một trong những người rất hèn mọn nầy của ta tức là các ngươi không làm cho ta.’

46 Rồi họ sẽ đi vào sự trừng phạt đời đời, còn những người nhân đức sẽ đi vào sự sống đời đời.”

Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)

Copyright © 2010 by World Bible Translation Center