Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)
Version
Dân Số 14

Dân chúng lại than van nữa

14 Đêm đó cả dân chúng kêu khóc bù lu bù loa. Tất cả dân Ít-ra-en phàn nàn về Mô-se và A-rôn. Mọi người bảo họ, “Ước gì chúng tôi chết trong xứ Ai-cập hay trong sa mạc nầy cho khoẻ. Tại sao CHÚA mang chúng tôi vào xứ nầy để bị gươm giết? Vợ và con chúng tôi sẽ bị bắt đi. Chẳng thà chúng tôi đi trở về Ai-cập còn hơn.”

Họ rủ nhau, “Thôi chúng ta hãy chọn một lãnh tụ dẫn chúng ta về lại Ai-cập đi.”

Mô-se và A-rôn liền sấp mặt xuống đất trước toàn thể dân Ít-ra-en đang tập họp tại đó. Giô-suê, con trai Nun và Ca-lép con trai Giê-phu-nê, là hai trong số những người đã thám thính xứ, liền xé quần áo mình. Họ nói với toàn dân Ít-ra-en, “Xứ chúng tôi đi thám thính rất tốt. Nếu CHÚA hài lòng về chúng ta, Ngài sẽ dẫn chúng ta vào và ban cho chúng ta xứ phì nhiêu đó. Đừng chống nghịch CHÚA! Đừng sợ dân xứ đó! Chúng ta sẽ tiêu diệt họ. Họ không có ai bảo vệ nhưng chúng ta có CHÚA. Cho nên đừng sợ họ.”

10 Bấy giờ dân chúng bàn định ném đá hai người. Nhưng vinh quang của CHÚA hiện ra nơi Lều Họp trước mặt cả dân Ít-ra-en. 11 CHÚA bảo Mô-se, “Dân nầy xem thường ta cho đến chừng nào? Chúng không tin ta đến bao giờ dù ta đã làm bao nhiêu phép lạ giữa vòng chúng? 12 Ta sẽ giáng một chứng bệnh kinh khiếp để tiêu diệt chúng. Nhưng ta sẽ làm cho các ngươi thành một dân mạnh hơn chúng nó.”

13 Mô-se thưa cùng CHÚA, “Người Ai-cập sẽ nghe chuyện nầy! Ngài đã mang dân nầy ra khỏi đó bằng quyền năng lớn lao của Ngài, 14 rồi dân Ai-cập sẽ kể lại cho dân sống trong xứ nầy. Lạy CHÚA, họ đã nghe về Ngài. Họ biết rằng Ngài đã ở với dân Ngài và đã thấy Ngài mặt đối mặt. Họ biết rằng đám mây của Ngài ngự trên dân Ngài và ban ngày Ngài dùng đám mây, ban đêm bằng đám lửa để dẫn dân Ngài. 15 Nếu Ngài giết sạch họ cùng một lúc thì các dân, đã từng nghe về quyền năng Ngài, sẽ nói, 16 ‘CHÚA không thể đem họ vào xứ Ngài đã hứa cùng họ. Cho nên Ngài giết họ trong sa mạc.’

17 Vậy bây giờ, lạy CHÚA, xin tỏ quyền năng lớn lao của Ngài. Xin làm như Ngài đã phán: 18 ‘CHÚA chậm giận và có lòng nhân từ lớn. Ngài tha thứ tội lỗi và những vi phạm. Nhưng Ngài không bao giờ quên trừng phạt kẻ có tội. Khi cha mẹ phạm tội, Ngài trừng phạt luôn con cháu, chắt, chít [a].’ 19 Vì tình yêu lớn lao của Ngài, xin tha thứ tội lỗi của họ như Ngài đã tha thứ cho họ từ khi ra khỏi Ai-cập cho đến bây giờ.”

20 CHÚA đáp, “Ta đã tha thứ họ theo như điều con xin. 21 Nhưng thật như ta hằng sống và như vinh hiển ta tràn ngập đất, ta cam kết điều nầy: 22 Tất cả những người đã thấy vinh hiển và các phép lạ ta làm trong xứ Ai-cập và trong sa mạc, nhưng không chịu vâng phục mà còn thách thức ta mười lần, 23 thì trong vòng họ, sẽ không một người nào được thấy đất mà ta đã hứa ban cho tổ tiên họ. Không một ai từ bỏ ta mà sẽ được thấy đất đó. 24 Tuy nhiên Ca-lép, kẻ tôi tớ ta suy nghĩ khác và theo ta hoàn toàn. Ta sẽ đem người vào xứ mà người đã thấy. Con cháu người sẽ hưởng đất ấy. 25 Vì dân A-ma-léc và dân Ca-na-an đang sống trong thung lũng, nên ngày mai hãy quay lại theo con đường sa mạc về hướng Biển Sậy [b].”

Chúa trừng phạt dân chúng

26 CHÚA bảo Mô-se và A-rôn, 27 “Đám dân hung ác nầy sẽ ta thán về ta cho đến bao giờ? Ta đã nghe tiếng kêu rêu ta thán của dân Ít-ra-en. 28 Cho nên hãy bảo họ, ‘CHÚA phán như sau. Ta đã nghe điều các ngươi nói, và thật như ta hằng sống, ta sẽ làm những điều nầy cho các ngươi: 29 Các ngươi sẽ chết trong sa mạc nầy. Mỗi người trong các ngươi từ hai mươi tuổi trở lên đã được kiểm tra với toàn dân, tức tất cả những ai đã phàn nàn ta thán về ta đều sẽ chết. 30 Không một ai trong các ngươi sẽ được vào đất ta hứa cho các ngươi sinh sống, ngoại trừ Ca-lép, con của Giê-phu-nê, và Giô-suê, con của Nun là được vào thôi. 31 Các ngươi bảo rằng con cái các ngươi sẽ bị bắt đi, nhưng ta sẽ đưa chúng nó vào hưởng xứ mà các ngươi không chịu vào. 32 Còn các ngươi đều sẽ chết trong sa mạc nầy.

33 Con cái các ngươi sẽ chăn chiên ở đây trong bốn mươi năm. Vì các ngươi không trung thành cho nên chúng nó sẽ phải chịu khổ cho đến khi các ngươi ngã chết trong sa mạc. 34 Các ngươi sẽ phải chịu hình phạt vì tội mình trong bốn mươi năm, mỗi năm thay cho một ngày tức bốn mươi ngày mà các ngươi đã thám thính xứ. Các ngươi sẽ biết ta đã trở thành kẻ thù của các ngươi.’

35 Ta, CHÚA, đã phán. Ta chắc chắn sẽ thi hành những điều nầy cho tất cả mọi người hung ác đã họp nhau chống nghịch ta. Chúng sẽ chết hết trong sa mạc nầy.”

36 Những người Mô-se sai đi thám thính xứ trở về gieo lời ta thán giữa vòng dân chúng. Họ tung những tin xấu về xứ đó. 37 Những kẻ tung tin xấu đều chết. CHÚA giết họ bằng một bệnh tật khủng khiếp. 38 Chỉ có hai người thám thính xứ không bị chết đó là Giô-suê, con của Nun và Ca-lép con của Giê-phu-nê.

Dân chúng tìm cách đi vào Ca-na-an

39 Khi Mô-se thuật lại điều nầy cho dân Ít-ra-en thì họ rất buồn rầu. 40 Sáng sớm hôm sau họ định đi lên đỉnh núi. Họ bảo, “Chúng tôi đã phạm tội. Chúng tôi sẽ đi đến nơi CHÚA bảo chúng tôi.”

41 Nhưng Mô-se bảo, “Tại sao các ngươi không tuân lệnh CHÚA? Các ngươi không thắng nổi đâu! 42 Đừng đi, vì CHÚA không còn ở với các ngươi nữa. Kẻ thù sẽ đánh bại các ngươi đó. 43 Các ngươi sẽ đụng độ với người A-ma-léc và người Ca-na-an. Chúng sẽ dùng gươm giết các ngươi. Các ngươi đã quay khỏi CHÚA nên Ngài không còn ở với các ngươi nữa.”

44 Nhưng dân chúng tự phụ. Họ cứ tiến lên đỉnh núi còn Mô-se và Rương Giao Ước của CHÚA vẫn ở trong doanh trại. 45 Người A-ma-léc và Ca-na-an sống trong vùng núi đó đổ xuống đánh người Ít-ra-en, đuổi họ chạy dài cho đến Họt-ma.

Thánh Thi 50

Thượng Đế muốn sự thờ phụng chân thật

Bài ca của A-sáp.

50 Thượng Đế, Chúa của các Chúa, phán.
    Từ hướng mặt trời mọc cho đến hướng mặt trời lặn Ngài gọi cả thế giới.
Ngài chiếu sáng ra từ Giê-ru-sa-lem,
    thành phố có vẻ đẹp tuyệt vời [a].
Thượng Đế của chúng tôi đến,
    Ngài không im lặng đâu.
Trước mặt Ngài có ngọn lửa cháy,
    và quanh Ngài có trận bão dữ dội.
Ngài bảo trời cao và đất thấp làm nhân chứng,
    khi Ngài phân xử dân sự Ngài.
Ngài phán, “Hỡi những kẻ thờ phụng ta hãy tập họp lại đây,
    là những người đã dùng sinh tế lập giao ước với ta.”

Thượng Đế là quan án,
    đến nỗi trời cao kia cũng tuyên bố sự công chính của Ngài. Xê-la

Thượng Đế phán, “Hỡi dân Ít-ra-en ta, hãy nghe đây.
Ta sẽ làm chứng nghịch các ngươi.
    Ta là Thượng Đế, Chúa của các ngươi.
Ta sẽ chẳng trách ngươi
    vì các của lễ ngươi.
    Các ngươi luôn dâng cho ta các của lễ thiêu.
Nhưng ta không cần bò đực
    trong chuồng hay dê đực trong ràn của các ngươi
10 vì tất cả muôn thú trong rừng đều thuộc về ta.
    Các gia súc ăn cỏ trên ngàn núi cũng là của ta.
11 Ta biết từng con chim trên núi,
    mọi sinh vật trong đồng nội cũng thuộc về ta.
12 Nếu ta đói, ta chẳng nói cho ngươi biết,
    vì đất và mọi vật trong đất đều thuộc về ta.
13 Ta không ăn thịt bò đực hay uống huyết dê đực.

14 Hãy dâng của lễ để tỏ lòng cảm tạ Thượng Đế.
    Hãy dâng cho Thượng Đế Chí Cao điều ngươi đã hứa.
15 Hãy kêu cầu ta trong khi gặp gian nan.
    Ta sẽ giải cứu ngươi rồi ngươi sẽ tôn kính ta.”

16 Nhưng Thượng Đế phán cùng kẻ ác rằng,
    “Tại sao ngươi nói đến luật lệ ta,
    và đề cập đến giao ước ta làm gì?”
17 Ngươi ghét lời dạy ta
    và quay lưng khỏi điều ta dặn bảo.
18 Khi ngươi thấy kẻ trộm liền nhập bọn với nó.
    Ngươi tham dự vào chuyện ngoại tình.
19 Miệng ngươi tuôn ra lời nói xấu,
    lưỡi ngươi phát ra điều dối trá.
20 Ngươi nói xấu anh em ngươi,
    và đặt điều dối trá về con của mẹ ngươi.
21 Trong khi ngươi làm như vậy thì ta làm thinh,
    cho nên ngươi tưởng ta [b] cũng như ngươi.
Nhưng ta sẽ quở phạt ngươi
    tận mặt.
22 “Vậy, hỡi những người quên
    Thượng Đế hãy suy nghĩ điều nầy.
    Nếu không ta sẽ xé banh xác ngươi,
    không ai giải cứu nổi.
23 Kẻ nào dâng của lễ tỏ lòng biết ơn ta
    là kẻ tôn kính ta.
Còn những kẻ đi trong đường lối ta,
    Ta là Thượng Đế sẽ giải cứu họ.”

I-sai-a 3-4

Thượng Đế sẽ trừng phạt Giu-đa và Giê-ru-sa-lem

Hãy hiểu biết điều nầy:

CHÚA là Thượng Đế Toàn Năng sẽ cất lấy những nhu cầu của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem gồm thức ăn và nước uống, các anh hùng và binh sĩ thiện chiến, các quan án và các nhà tiên tri, những thầy bói toán, các bô lão, các nhà chỉ huy quân sự và các quan quyền, các cố vấn, những thợ khéo, và những người phù phép.

CHÚA phán, “Ta sẽ đặt những chú bé lãnh đạo ngươi, các trẻ con khờ khạo sẽ cai trị ngươi. Người nầy sẽ chống người kia; các láng giềng chống nghịch nhau. Thanh niên không tôn trọng người già cả, kẻ thứ dân khinh thường người thượng lưu.”

Lúc đó có người sẽ nắm một trong các anh em mình mà nói rằng, “Anh có áo choàng [a], hãy làm lãnh tụ chúng ta đi. Cảnh điêu tàn nầy sẽ do anh liệu định.”

Nhưng người đó sẽ đáp, “Tôi không thể cai trị các anh, vì tôi không có thực phẩm hay quần áo trong nhà tôi. Đừng cử tôi làm lãnh tụ.”

Việc đó sẽ xảy ra vì Giê-ru-sa-lem đã vấp ngã, Giu-đa đã té nhào. Những điều chúng nói và làm đều nghịch lại Thượng Đế; chúng chống lại Ngài.

Vẻ mặt của chúng cũng cho thấy chúng có tội; như dân Xô-đôm, chúng kiêu hãnh vì tội lỗi mình. Chúng không cần biết ai nhìn thấy. Khốn cho chúng vì chúng đã rước họa vào thân.

10 Hãy bảo những kẻ làm điều nhân đức rằng họ sẽ thịnh vượng, vì sẽ hưởng công lao mình làm ra. 11 Nhưng khốn cho kẻ ác! Chúng sẽ bị hình phạt vì tội lỗi mình. 12 Các trẻ nhỏ ngược đãi dân ta, còn đàn bà thì thống trị họ.

Hỡi dân ta, các lãnh tụ ngươi hướng dẫn ngươi đi lầm đường rồi và khuyến dụ ngươi bỏ đường chánh.

13 CHÚA đã an vị nơi phòng xử án và đứng lên để xét xử dân Ngài. 14 CHÚA đã trình vụ án nghịch lại các bô lão và các lãnh tụ khác của dân Ngài:

“Các ngươi đã đốt vườn nho [b]. Nhà các ngươi đầy dẫy những vật lấy từ kẻ nghèo. 15 Ai cho các ngươi quyền chà đạp dân ta và giúi đầu kẻ nghèo xuống đất đen?” CHÚA Toàn Năng hỏi như vậy.

Lời cảnh cáo các đàn bà Giê-ru-sa-lem

16 CHÚA phán, “Các đàn bà Giê-ru-sa-lem rất tự phụ. Chúng bước đi õng ẹo, liếc mắt đưa tình. Chúng bước thoăn thoắt, khua vòng đeo chân kêu leng keng.”

17 Cho nên CHÚA sẽ khiến đầu của các đàn bà Giê-ru-sa-lem lở lói, làm chúng rụng tóc. 18 Lúc đó Ngài sẽ cất lấy những thứ khiến chúng kiêu hãnh: các khoen đeo chân xinh đẹp, khăn vấn đầu, kiềng đeo cổ hình mặt trăng, 19 vòng đeo tai, vòng xuyến, màn mỏng, 20 khăn choàng cổ, xuyến đeo chân, nịt lưng, chai nước hoa, bùa đeo [c], 21 nhẫn, vòng đeo mũi, 22 áo dài đẹp nhất, mũ đội, khăn choàng, và ví, 23 gương soi mặt, áo vải gai, khăn quấn đầu, và khăn choàng dài.

24 Thay vì có mùi thơm sẽ có mùi thối. Thay vì thắt lưng đẹp, họ sẽ mang dây thừng tù nhân. Thay vì mái tóc đẹp, họ sẽ bị sói đầu [d]. Thay vì mặc áo quần đẹp, họ sẽ mặc quần áo tang. Thay vì hấp dẫn lộng lẫy, họ sẽ mang nhãn hiệu tù binh.

25 Lúc đó đàn ông các ngươi sẽ bị gươm giết, các anh hùng ngươi sẽ chết trong chiến trận. 26 Sẽ có tiếng than khóc gần cổng thành. Giê-ru-sa-lem sẽ như người đàn bà mất tất cả và ngồi bệt xuống đất.

Lúc đó bảy người đàn bà sẽ nắm bắt một người đàn ông và năn nỉ, “Chúng tôi sẽ tự nuôi thân, tự may mặc lấy, nhưng xin anh hãy lấy chúng tôi, để chúng tôi mang tên anh. Xin cất sự xấu hổ chúng tôi đi.”

Nhánh của Chúa

Lúc đó nhánh của CHÚA [e] sẽ rất xinh đẹp và lớn. Dân chúng còn sống trong Ít-ra-en sẽ rất hãnh diện về sự bành trướng của xứ. Những ai còn sống sót trong Xi-ôn và Giê-ru-sa-lem sẽ được gọi là thánh; tên họ sẽ được ghi vào những kẻ sống trong Giê-ru-sa-lem.

CHÚA sẽ gột rửa những vết dơ bẩn [f] khỏi các con gái Xi-ôn [g]. Ngài sẽ rửa sạch vết máu khỏi Giê-ru-sa-lem và tẩy sạch thành đó bằng thần linh công chính và thần linh bằng lửa. Rồi CHÚA sẽ dùng đám khói ban ngày và trụ lửa sáng rực ban đêm [h] để che phủ núi Xi-ôn. Mỗi người [i] đều sẽ được một lọng che.

Mái che nầy sẽ giúp họ khỏi ánh nắng nóng và làm nơi trú ẩn khi mưa gió.

Hê-bơ-rơ 11

Các anh hùng đức tin

11 Đức tin là nắm chắc những gì mình hi vọng và vững tin vào những điều mình chưa thấy. Đức tin khiến chúng ta nhớ lại các vĩ nhân xưa kia sống vừa lòng Thượng Đế.

Nhờ đức tin chúng ta biết cả vũ trụ được dựng nên bằng lời phán của Thượng Đế, cho nên vật hữu hình đều đến từ những cõi vô hình.

Cũng nhờ đức tin, A-bên dâng cho Thượng Đế một của lễ tốt hơn của Ca-in. Thượng Đế nói rằng Ngài vui nhận lễ vật của A-bên và gọi ông là người công chính vì đức tin của ông. Dù A-bên đã chết nhưng qua đức tin, ông vẫn còn đang nói.

Nhờ đức tin, Ê-nóc được tiếp về thiên đàng, không hề nếm cái chết. Không ai thấy ông nữa, vì Thượng Đế đã tiếp ông đi bởi vì trước khi được tiếp đi, Thánh Kinh nói rằng ông sống vừa lòng Thượng Đế. Nếu không có đức tin thì không ai có thể sống vừa lòng Thượng Đế được. Ai đến cùng Ngài phải tin rằng có Thượng Đế và Ngài thưởng cho người thật lòng tìm kiếm Ngài.

Nhờ đức tin Nô-ê nghe lời Thượng Đế cảnh cáo về những điều ông chưa thấy. Ông vâng lời Ngài và đóng một chiếc tàu lớn để cứu gia đình mình. Nhờ đức tin, Nô-ê chứng tỏ thế gian sai lầm vì ông là người được giảng hòa với Ngài qua đức tin.

Nhờ đức tin, Áp-ra-ham vâng theo tiếng gọi của Thượng Đế đi đến một nơi Ngài hứa ban cho ông. Ông rời quê hương mà không biết mình sẽ đi đâu. Qua đức tin mà ông sống như dân tạm trú trên xứ mà Thượng Đế hứa ban cho. Ông sống trong các lều giống như Y-sác và Gia-cốp là những người cùng nhận lời hứa từ Thượng Đế. 10 Áp-ra-ham chờ đợi một thành [a] có nền thật sự—do Thượng Đế vẽ kiểu và xây dựng.

11 Áp-ra-ham quá cao tuổi không thể nào có con, còn Sa-ra thì không thể sinh sản được. Nhưng nhờ đức tin ông đã sinh con vì ông tin Thượng Đế có quyền thực hiện được lời hứa của Ngài. 12 Do đó, từ một người già gần qua đời mà lại sinh ra vô số con cháu đông như sao trên trời, cát bãi biển, không thể đếm được.

13 Tất cả các vĩ nhân ấy đều chết trong đức tin, chưa nhận được điều Thượng Đế hứa cho dân Ngài nhưng chào mừng những điều ấy đang đến từ tương lai rất xa. Họ nhận mình là lữ khách xa lạ trên đất. 14 Những ai nói như thế đều chứng tỏ đang đi tìm quê hương. 15 Nếu họ tưởng nhớ đến quê hương mà họ đã ra đi thì họ đã có thể trở về rồi. 16 Nhưng trái lại, họ mơ ước một quê hương tốt hơn—trên thiên đàng. Cho nên Thượng Đế không xấu hổ mà nhận mình làm Thượng Đế của họ vì Ngài đã chuẩn bị cho họ một thành.

17 Cũng nhờ đức tin mà khi Thượng Đế thử nghiệm Áp-ra-ham, ông dâng con một của mình là Y-sác làm của lễ hi sinh. Tuy ông đã nhận lời hứa của Thượng Đế nhưng vẫn sẵn sàng dâng con mình làm sinh tế. 18 Thượng Đế phán cùng ông, “Dòng dõi mà ta đã hứa cho ngươi sẽ ra từ Y-sác.” [b] 19 Áp-ra-ham tin rằng Thượng Đế có thể khiến người chết sống lại và thật thế, việc ấy chẳng khác nào Áp-ra-ham nhận lại con mình từ chốn người chết.

20 Nhờ đức tin, Y-sác chúc phước cho tương lai của Gia-cốp và Ê-sau. 21 Cũng nhờ đức tin, Gia-cốp lúc sắp qua đời chúc phước cho các con trai của Gia-cốp. Rồi ông cúi mình bái lạy đang khi tì trên cây gậy.

22 Cũng nhờ đức tin, Giô-xép lúc sắp chết, nói đến việc dân Ít-ra-en ra khỏi nước Ai-cập và dặn dò về thân xác mình.

23 Nhờ đức tin, khi mới sinh, Mô-se được cha mẹ đem giấu trong ba tháng. Hai ông bà thấy con mình ngộ nghĩnh cho nên không sợ trái lệnh vua.

24 Nhờ đức tin, khi khôn lớn thì Mô-se từ bỏ danh hiệu là con trai của công chúa vua Ai-cập. 25 Ông chọn phần chịu khổ với dân của Thượng Đế thay vì tạm hưởng sự vui sướng nhất thời của tội lỗi. 26 Ông cho rằng chẳng thà chịu khổ vì Chúa Cứu Thế còn hơn là hưởng châu báu xứ Ai-cập vì ông trông mong phần thưởng từ Thượng Đế. 27 Cũng nhờ đức tin cho nên Mô-se rời bỏ xứ Ai-cập mà không sợ vua nổi giận. Mô-se đứng vững vàng như nhìn thấy Thượng Đế là Đấng không ai thấy được. 28 Qua đức tin Mô-se chuẩn bị lễ Vượt Qua và bôi huyết trên khung cửa để thiên sứ hủy diệt [c] không giết con trai đầu lòng của dân Ít-ra-en.

29 Nhờ đức tin mà dân chúng băng qua Hồng hải như đi trên đất khô. Nhưng khi người Ai-cập thử băng qua thì đều bị chết đuối hết.

30 Nhờ đức tin mà các tường thành Giê-ri-cô sập xuống sau khi dân chúng đi vòng quanh bảy ngày.

31 Nhờ đức tin mà Ra-háp, một cô gái làng chơi, đón tiếp các gián điệp cho nên cô không bị giết cùng với những kẻ không tin Thượng Đế.

32 Tôi có cần đưa thêm dẫn chứng nào khác nữa không? Tôi không đủ thì giờ để thuật cho anh chị em nghe về Ghi-đê-ôn, Ba-rác, Sam-sôn, Giép-thê, Đa-vít, Sa-mu-ên và các nhà tiên tri. 33 Nhờ đức tin họ chiến thắng các vương quốc. Họ làm điều phải. Họ nhận lời hứa từ Thượng Đế và bịt mồm sư tử, 34 dập tắt ngọn lửa hừng và được cứu khỏi lưỡi gươm. Họ tuy yếu đuối nhưng lại mạnh mẽ. Họ can đảm trong chiến trận nên đánh bại các đạo quân thù. 35 Nhiều người đàn bà nhận thân nhân sống lại từ kẻ chết. Những người khác thà chịu bị hành hạ chứ không đổi lấy tự do để được sống lại vào một đời tốt đẹp hơn. 36 Một số bị nhạo cười, đánh đập. Kẻ khác bị xiềng xích và bị tống giam vào ngục tối. 37 Họ bị ném đá chết, bị cưa xẻ làm đôi, bị gươm giết. Người thì lang thang rày đây mai đó, phải che thân bằng da cừu, da dê. Họ khốn khổ, bị hành hạ và ngược đãi. 38 Thế gian nầy không xứng đáng cho họ! Họ lưu lạc trong sa mạc, rừng núi, sống trong hang hốc dưới đất.

39 Tất cả những người ấy đều được nổi danh vì đức tin, nhưng chưa ai trong họ nhận được điều Thượng Đế đã hứa. 40 Thượng Đế đã dự liệu cho chúng ta một điều tốt hơn để cho họ chỉ trở trên toàn thiện cùng với chúng ta mà thôi.

Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)

Copyright © 2010 by World Bible Translation Center