Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)
Version
Sáng Thế 14

Lót bị giặc bắt

14 Lúc ấy Am-ra-phên làm vua vùng đất Ba-by-lôn [a], A-ri-ốc là vua Ê-la-sa, Kết-rô-lao-me là vua Ê-lam, còn Ti-đan là vua Gô-im. Tất cả các vua nầy họp nhau lại đánh các vua: Bê-ra của Xô-đôm, Biếc-sa, vua Gô-mô-rơ, Si-náp vua Ách-ma, Sê-mê-be vua Giê-bô-im và vua của Bê-la. (Bê-la cũng có tên là Xoa.)

Các vua bị tấn công tập họp các đạo quân trong thung lũng Xi-đim (bây giờ là Biển Chết). Trước đây họ thần phục Kết-rô-lao-me trong mười hai năm, nhưng đến năm thứ mười ba thì họ dấy loạn. Đến năm thứ mười bốn, Kết-rô-lao-me, cùng các vua đồng minh, tiến đánh và thắng dân Rê-pha-ít trong vùng Ách-tê-rốt Ka-na-im, dân Giu-xít trong vùng Cham, và dân Ê-mít trong vùng Sa-vê Ki-ri-át-tha-im. Họ cũng đánh thắng dân Hô-rít trong vùng đồi núi Sê-ia [b] đến tận Ên Pha-ran [c] gần sa mạc. Xong họ trở về tiến đánh Ên-mích-phát tức Ca-đe. Họ đánh thắng dân A-ma-léc, dân A-mô-rít sống trong vùng Ha-xa-xôn Tha-ma.

Lúc đó các vua Xô-đôm, Gô-mô-rơ, Ách-ma, Giê-bô-im và Bê-la giàn trận trong thung lũng Xi-đim [d]. (Bê-la còn có tên là Xoa.) Họ đánh nhau với Kết-rô-lao-me, vua Ê-lam; Ti-đan, vua Gô-im; Am-ra-phên, vua Ba-by-lôn [e]; và A-ri-ốc, vua Ê-la-xa; bốn vua chống năm vua.

10 Trong thung lũng Xi-đim có nhiều hố nhựa chai. Khi các vua Xô-đôm và Gô-mô-rơ cùng đạo quân họ bỏ chạy thì một số quân sĩ rơi vào trong các hố nhựa chai, nhưng số còn lại chạy trốn lên núi.

11 Bấy giờ vua Kết-rô-lao-me và đạo quân ông đoạt hết tài sản của dân Xô-đôm và Gô-mô-rơ, kể luôn thực phẩm của họ. 12 Họ cũng bắt Lót, cháu Áp-ram đang cư ngụ tại Xô-đôm, và đoạt hết tài sản ông ta rồi bỏ đi. 13 Một trong những người trốn thoát được đến báo với Áp-ram, người Do-Thái, thuật lại cho ông nghe mọi việc. Trong lúc đó Áp-ram đang dựng lều gần các cây sồi lớn của Mam-rê người A-mô-rít. Mam-rê là anh của Ết-côn và A-ne. Họ đồng ý họp nhau giúp Áp-ram.

Áp-ram giải cứu Lót

14 Khi Áp-ram nghe tin Lót đã bị giặc bắt, ông liền tập họp 318 gia nhân đã được huấn luyện thuần thục, sinh trưởng trong trại mình. Ông hướng dẫn họ rượt đuổi quân thù cho đến thành Đan. 15 Đêm đó ông chia gia nhân ra thành nhiều toán, mở cuộc tấn công bất ngờ quân thù. Họ rượt đuổi chúng chạy tới Hô-ba, phía bắc thành Đa-mách. 16 Áp-ram mang về đầy đủ mọi thứ giặc đã cướp, cùng các đàn bà và nhiều người khác, luôn cả Lót và tài sản ông ta nữa.

17 Sau khi đánh thắng Kết-rô-lao-me và các vua đồng minh, Áp-ram trở về. Trên đường về, vua Xô-đôm ra đón ông tại thung lũng Sa-ve, bây giờ gọi là Thung lũng Vua.

Mên-chi-xê-đéc

18 Mên-chi-xê-đéc mang bánh và rượu ra. Ông là thầy tế lễ của Thượng Đế Tối Cao 19 và chúc phước cho Áp-ram như sau,

“Áp-ram ơi, nguyện ông được Thượng Đế Tối Cao,
Đấng sáng tạo trời đất, ban phúc lành.
20 Chúc tụng Thượng Đế Tối Cao,
Đấng đã giúp ông thắng quân thù.”

Rồi Áp-ram lấy một phần mười chiến lợi phẩm dâng cho Mên-chi-xê-đéc. 21 Vua Xô-đôm bảo Áp-ram, “Ông hãy giữ những thứ nầy cho mình đi. Chỉ giao lại cho tôi những người bị bắt thôi.”

22 Nhưng Áp-ram bảo vua Xô-đôm rằng, “Tôi đã hứa với CHÚA, Thượng Đế Tối Cao, Đấng dựng nên trời đất, 23 rằng những gì thuộc về vua tôi sẽ không giữ, dù một sợi chỉ hay một sợi dây giày đi nữa, để vua khỏi nói rằng, ‘Nhờ ta mà Áp-ram được giàu có.’ 24 Tôi chỉ giữ lại bằng số thực phẩm mà các thanh niên trai tráng đã ăn thôi. Nhưng hãy cấp cho A-ne, Ết-côn và Mam-rê phần của họ trong số chiến lợi phẩm thu được, vì họ cùng tham chiến với tôi.”

Ma-thi-ơ 13

Ngụ ngôn về gieo giống(A)

13 Cùng hôm ấy Chúa Giê-xu đi ra khỏi nhà, ngồi bên bờ hồ. Dân chúng tụ tập quanh Ngài rất đông nên Ngài xuống thuyền ngồi, còn dân chúng thì đứng trên bờ. Chúa Giê-xu dùng ngụ ngôn dạy họ nhiều điều. Ngài kể: “Có một nông gia kia đi ra gieo giống. Trong khi gieo, một số hột rơi bên đường đi, chim đáp xuống ăn hết. Một số rơi trên đất đá, có rất ít đất thịt. Hột giống ấy mọc lên mau vì có ít đất cạn. Nhưng khi mặt trời mọc lên thì cây non chết héo vì rễ không sâu. Một số hột rơi vào đám cỏ gai, gai mọc lên chèn ép cây non. Một số hột rơi trên đất tốt, mọc lên và sinh hoa quả nhiều. Có cây ra một trăm hột, có cây sinh ra sáu chục, có cây sinh ra ba chục. Ai có tai để nghe, hãy nghe cho kỹ.”

Tại sao Chúa Giê-xu dùng ngụ ngôn(B)

10 Các môn đệ đến hỏi Chúa Giê-xu, “Sao thầy dùng ngụ ngôn để dạy dân chúng?”

11 Ngài đáp, “Các con đã được đặc ân để hiểu biết các điều bí ẩn về Nước Trời nhưng những người khác thì không được đặc ân ấy. 12 Ai có trí hiểu sẽ được cho thêm để họ có dư, nhưng ai không hiểu biết thì sẽ bị lấy luôn những gì họ có nữa. 13 Ta dùng ngụ ngôn để dạy họ vì họ nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu. 14 Như thế để lời nhà tiên tri Ê-sai đã viết về họ được thành tựu:

‘Các ngươi sẽ nghe đi nghe lại,
    mà không hiểu gì.
Các ngươi sẽ nhìn đi nhìn lại
    mà không thấy gì.
15 Vì trí óc dân nầy
    đã trở nên ương ngạnh.
Họ bịt tai không muốn nghe,
    nhắm mắt không muốn thấy.
Vì nếu mắt họ thấy được,
    tai họ nghe được,
    trí họ sẽ hiểu.
Rồi họ sẽ trở lại với ta
    để được chữa lành chăng.’ (C)

16 Nhưng các con có phúc vì mắt các con thấy được, tai các con nghe được. 17 Ta bảo thật, nhiều nhà tiên tri và những người nhân đức muốn thấy điều các con hiện đang thấy, mà không được. Họ muốn nghe điều các con hiện đang nghe cũng không được.

Ý nghĩa của ngụ ngôn về gieo giống(D)

18 Các con hãy nghe ý nghĩa của ngụ ngôn về nông gia. 19 Hột giống rơi bên đường đi nghĩa là gì? Hột ấy như người nghe dạy về nước thiên đàng mà không hiểu. Kẻ Ác liền đến cướp lấy hột đã trồng trong lòng họ. 20 Còn về hột giống rơi nhằm chỗ đất đá thì sao? Hột ấy giống như người nghe lời dạy liền vui nhận. 21 Nhưng người ấy không để lời dạy ăn sâu vào trong lòng. Chỉ giữ một thời gian ngắn thôi. Khi khó khăn và bạo hành xảy đến do lời dạy thì họ liền bỏ cuộc. 22 Còn hột giống rơi nhằm cỏ gai nghĩa là gì? Hột ấy giống như người nghe đạo nhưng lại để những lo âu đời nầy và cám dỗ của giàu sang cản trở khiến lời dạy không nẩy nở và kết quả [a] được trong đời sống người ấy. 23 Còn về hột giống rơi trên đất tốt là gì? Hột ấy giống như người nghe đạo và hiểu nên kết quả, một hột ra một trăm, sáu chục hoặc ba chục.”

Ngụ ngôn về lúa mì và cỏ dại

24 Chúa Giê-xu lại kể một ngụ ngôn khác: “Nước Trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. 25 Đêm ấy, trong khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù đến gieo cỏ dại giữa đám lúa mì rồi bỏ đi. 26 Khi lúa mì nẩy mầm và bắt đầu sinh hột, thì cỏ dại cũng xuất hiện. 27 Các đầy tớ đến hỏi, ‘Có phải chủ đã gieo giống tốt trong ruộng không? Vậy cỏ dại ở đâu mà ra?’”

28 Người chủ đáp, “Kẻ thù đã làm chuyện đó.”

Các đầy tớ hỏi, “Vậy chủ có muốn chúng tôi đi nhổ hết cỏ dại lên không?”

29 “Người chủ đáp, ‘Đừng. Vì khi các ngươi nhổ cỏ dại rất có thể các ngươi vô tình nhổ luôn lúa mì. 30 Hãy để cỏ dại và lúa mì cùng lớn lên cho đến mùa gặt. Lúc ấy ta sẽ bảo mấy người làm công: Hãy nhổ hết cỏ dại trước, bó lại rồi đốt đi. Sau mới gặt hết lúa mì mang vào kho ta.’”

Ngụ ngôn về hột cải và men(E)

31 Chúa Giê-xu lại kể một ngụ ngôn nữa: “Nước Trời giống như một hột cải mà người kia trồng trong ruộng. 32 Hột đó nhỏ nhất trong các hột giống, nhưng khi mọc lên nó trở thành một trong những cây lớn nhất trong vườn. Cây đó lớn và sum suê đến nỗi chim trời làm tổ trong nhánh nó được.”

33 Ngài kể tiếp một ngụ ngôn nữa: “Nước Trời giống như men mà người đàn bà nọ trộn trong một thau bột lớn cho đến chừng cả đống bột đều dậy lên.”

34 Chúa Giê-xu dùng ngụ ngôn để dạy dỗ dân chúng; Ngài luôn luôn dùng ngụ ngôn để dạy họ. 35 Đúng như lời nhà tiên tri đã nói:

“Ta sẽ dùng ngụ ngôn;
Ta sẽ thuật ra những điều bí mật
    từ thuở trời đất được dựng nên.” (F)

Chúa Giê-xu giải thích ngụ ngôn về cỏ dại

36 Chúa Giê-xu rời quần chúng đi vào nhà. Các môn đệ đến hỏi Ngài, “Xin thầy giải thích cho chúng con ý nghĩa về ngụ ngôn cỏ dại trong ruộng.”

37 Chúa Giê-xu đáp, “Người gieo giống tốt trong ruộng là Con Người. 38 Ruộng là thế gian, và giống tốt là tất cả những con cái của Thượng Đế thuộc về nước thiên đàng. Cỏ dại là những người của Kẻ Ác. 39 Còn kẻ thù gieo cỏ dại là ma quỉ. Mùa gặt là ngày tận thế, những thợ gặt là các thiên sứ.

40 Cỏ dại bị nhổ lên để đốt trong lửa ra sao thì ngày tận thế cũng như vậy. 41 Con Người sẽ sai các thiên sứ Ngài gom lại, từ trong nước Ngài, những người gây ra tội lỗi và những kẻ làm ác. 42 Các thiên sứ sẽ ném họ vào lò lửa hực, nơi đó họ sẽ khóc lóc và nghiến răng vì đau đớn. 43 Lúc bấy giờ người nhân đức sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình. Ai có tai để nghe, hãy nghe cho kỹ.”

Ngụ ngôn về kho báu và viên ngọc trai

44 “Nước Trời giống như một kho báu chôn trong một thửa ruộng. Một hôm có người tìm được liền giấu lại trong ruộng. Anh mừng quá liền về nhà bán hết tài sản để mua thửa ruộng đó.

45 Nước Trời cũng giống như một thương gia kia đi tìm viên ngọc trai quí. 46 Khi tìm được rồi, liền về bán hết tài sản để lấy tiền mua viên ngọc trai ấy.

Ngụ ngôn về lưới cá

47 Nước Trời giống như lưới thả xuống hồ bắt đủ mọi thứ cá. 48 Khi lưới đầy rồi thì người đánh cá kéo lên bờ. Họ ngồi lại lựa cá tốt bỏ vào giỏ còn cá xấu thì ném đi. 49 Ngày tận thế cũng như vậy. Các thiên sứ sẽ đến phân chia kẻ ác và người thiện ra. 50 Các thiên sứ sẽ ném những kẻ ác vào lò lửa hực nơi có khóc lóc và nghiến răng vì đau đớn.”

51 Chúa Giê-xu hỏi các môn đệ, “Các con có hiểu mọi điều nầy không?”

Họ thưa, “Dạ hiểu.”

52 Rồi Ngài bảo họ, “Giáo sư luật nào được dạy về Nước Trời cũng giống như một chủ nhà kia đem hết những đồ mới và cũ đã để dành lâu năm ra ngoài.”

Chúa Giê-xu về thăm quê(G)

53 Sau khi Chúa Giê-xu dạy xong thì Ngài rời nơi đó 54 trở về quê quán và dạy dỗ trong hội đường. Dân chúng rất kinh ngạc. Họ hỏi nhau, “Ông nầy học ở đâu và lấy quyền nào mà làm những phép lạ nầy? 55 Ông ta có phải là thợ mộc không? Có phải mẹ ông là Ma-ri và anh em ông là Gia-cơ, Giô-xép, Xi-môn và Giu-đa không? 56 Có phải các chị em ông ta đang sống ở giữa chúng ta đây sao? Ông ta lấy quyền phép ở đâu mà làm được những điều nầy?” 57 Nên họ ngần ngại không chịu tin Ngài.

Nhưng Chúa Giê-xu bảo họ, “Nhà tiên tri nào cũng được khắp nơi tôn trọng, chỉ trừ tại quê quán và gia đình mình mà thôi.”

58 Ở đó Ngài không làm nhiều phép lạ vì họ chẳng có lòng tin.

Nê-hê-mi-a 3

Những người xây dựng lại vách thành

Ê-li-a-síp, thầy tế lễ cả và các thầy tế lễ đồng nghiệp bắt tay xây dựng lại Cổng Chiên. Họ dâng công tác mình cho CHÚA và dựng lại các cửa vào vị trí. Họ làm việc cho đến Tháp Một Trăm và dâng công tác cho CHÚA. Rồi họ đi đến xây lại Tháp Ha-na-nên. Kế bên họ, có những người ở Giê-ri-cô xây lại một phần vách, còn Xa-cua, con trai Im-ri, xây kế bên họ.

Các con trai của Hát-sê-na xây lại Cổng Cá, đặt ván và dựng cửa, chốt cửa và đòn ngang vào vị trí. Mê-rê-mốt, con trai U-ri, con của Hát-cô, sửa chữa kế bên họ. Mê-su-lam, con của Bê-rê-kia, con trai của Mê-sê-sa-bên, xây sửa kế bên Mê-rê-mốt. Còn Xa-đốc, con của Ba-a-na, sửa chữa bên cạnh Mê-su-lam. Những người từ Tê-cô-a sửa chữa kế bên họ, nhưng những người trưởng toán của Tê-cô-a không làm việc dưới quyền các đốc công của họ.

Giô-gia-đa, con Pha-sê-a và Mê-su-lam, con Bê-sô-đia sửa chữa Cổng Cũ. Họ đặt ván và dựng cửa, chốt cửa và đòn ngang vào vị trí. Tiếp theo họ có Mê-la-tia từ Ghi-bê-ôn cùng những người khác từ Ghi-bê-ôn và Mích-ba, với Gia-đôn từ Mê-rô-nốt cũng sửa chữa. Đó là những khu vực thuộc quyền cai trị của viên thống đốc vùng Ơ-phơ-rát. Kế họ có U-xi-ên, con trai Ha-hai-gia, thợ bạc, cũng sửa chữa. Kế người có Ha-na-nai-gia, thợ làm dầu thơm, sửa chữa. Những người đó xây sửa lại Giê-ru-sa-lem cho đến Cửa Rộng. Phần kế tiếp của vách do Rê-phai-a, con Hu-rơ, quan cai trị phân nửa quận Giê-ru-sa-lem sửa chữa. 10 Cạnh người có Giê-đai-gia, con trai Ha-ru-máp sửa chữa phần đối diện nhà mình. Kế bên người có Ha-túc, con Ha-sáp-nia sửa chữa. 11 Manh-ki-gia, con Ha-rim và Hát-súp, con Pha-hát Mô-áp sửa chữa phần khác của vách và Tháp Lò. 12 Kế họ có Sa-lum, con Ha-lô-hết, viên quan cai quản nửa quận Giê-ru-sa-lem. Các con gái người cũng tham gia công tác sửa chữa.

13 Ha-nun và những người từ Xa-nô-a sửa chữa Cổng Thung Lũng, xây dựng lại cổng đó, dựng cửa, chốt cửa và đặt các đòn ngang vào vị trí. Họ cũng sửa chữa hơn bốn trăm thước [a] vách chạy dài cho đến Cổng Rác.

14 Manh-ki-gia, con Rê-cáp, viên quan cai trị quận Bết Ha-kê-rem, sửa chữa Cổng Rác. Người xây lại cổng đó, dựng cửa, chốt cửa và đặt các đòn ngang vào vị trí.

15 Sa-lum, con của Côn-Hô-giê, viên quan cai trị quận Mích-ba sửa chữa Cổng Suối Nước. Người xây sửa lại cổng đó, dựng mái che lên trên, đặt cửa, chốt cửa và các đòn ngang vào vị trí. Người cũng sửa chữa vách của Hồ Si-lôm kế cận Vườn Vua chạy dài cho tới các bậc thềm đi xuống phần xưa cũ của thành Đa-vít. 16 Kế Sa-lum có Nê-hê-mi, con Ách-búc, viên quan cai trị phân nửa quận Bết-sua. Người sửa chữa phần đối diện mả của Đa-vít và chạy tới hồ nhân tạo và Nhà của Các Anh hùng.

17 Kế người có các người Lê-vi sửa chữa. Họ làm việc dưới quyền coi sóc của Rê-hum, con Ba-ni. Kế người có Ha-sa-bia, quan cai trị nửa quận Kê-I-la, tức quận của mình. 18 Cạnh người có Binh-nui, con Hê-na-đát và những người Lê-vi sửa chữa. Binh-nui là quan cai trị nửa quận Kê-I-la. 19 Kế họ có Ê-xe, con Giê-sua, quan cai trị Mích-ba, sửa chữa phần khác của vách. Người làm việc đối diện với kho vũ khí, đến chỗ quẹo. 20 Kế người có Ba-rúc, con Xáp-bai, ra công dựng lại vách từ chỗ quẹo cho đến cổng nhà của Ê-li-a-síp, thầy tế lễ cả. 21 Kế người là Mê-rê-mốt, con U-ri, con Hát-cô sửa chữa phần vách chạy từ cổng nhà Ê-li-a-síp cho đến cuối nhà.

22 Khu vực kế tiếp do các thầy tế lễ từ sống gần vùng đó [b] phụ trách sửa chữa. 23 Kế họ có Bên-gia-min và Hát-súp sửa chữa trước mặt nhà họ. Tiếp đến có A-xa-ria, con Ma-a-sê-gia, con A-na-nia, sửa chữa bên cạnh nhà mình. 24 Cạnh người có Binh-nui, con Hê-na-đát, sửa chữa vách chạy từ nhà A-xa-ria đến chỗ quẹo cho tới góc thành. 25 Pha-lanh, con U-sai sửa chữa đối diện từ chỗ quẹo cạnh tháp ở cung điện trên, gần sân của toán cận vệ vua. Kế bên Pha-lanh có Phê-đai-gia, con Pha-rốt sửa chữa. 26 Những người giúp việc trong đền thờ cư ngụ trên đồi Ô-phen sửa chữa cho đến điểm đối ngang Cổng Nước. Rồi họ sửa chữa về phía đông và phía tháp chạy từ cung vua.

27 Kế họ có những người ở Tê-cô-a sửa chữa vách từ tháp cao chạy dài từ cung vua cho đến vách Ô-phen.

28 Các thầy tế lễ sửa chữa phía trên Cổng Ngựa, mỗi người lo phần trước mặt nhà mình. 29 Kế bên họ có Xa-đốc, con của Im-mê sửa chữa đối diện nhà mình. Cạnh người có Sê-mai-gia, con Sê-ca-nia, lính canh Cổng phía đông, cũng sửa chữa. 30 Kế bên người có Ha-na-nia, con Sê-lê-mia và Ha-nun, con thứ sáu của Xa-láp, sửa chữa phần khác của vách. Cạnh họ có Mê-su-lam, con Bê-rê-kia sửa chữa ngay trước nơi ở của mình. 31 Kế người có Manh-ki-gia, một trong những thợ bạc, cũng sửa chữa. Người sửa cho đến nhà của các đầy tớ phục vụ trong đền thờ và các thương gia. Đó là phần nằm đối diện Cổng Thanh tra, và làm cho đến phòng phía trên góc vách. 32 Các thợ bạc và thương gia sửa chữa phần nằm giữa phòng phía trên của góc vách và Cổng Chiên.

Công Vụ Các Sứ đồ 13

Ba-na-ba và Sau-lơ được chọn

13 Tại hội thánh An-ti-ốt có các nhà tiên tri và giáo sư sau đây: Ba-na-ba, Xi-mê-ôn cũng gọi là Ni-gie, Lu-xi-u quê ở Xy-ren, Ma-na-en là người cùng lớn lên với vua Hê-rốt [a] và Sau-lơ. Mọi người đều thờ kính Chúa và cữ ăn một thời gian. Lúc ấy Thánh Linh bảo họ, “Hãy để riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho công tác đặc biệt mà ta đã giao cho họ làm.”

Vì thế sau khi cữ ăn và cầu nguyện thì họ đặt tay [b] trên Ba-na-ba và Phao-lô rồi cử hai người đi.

Ba-na-ba và Sau-lơ ở đảo Chíp

Ba-na-ba và Sau-lơ được Thánh Linh sai đi, đến thành Xê-lêu-xia. Từ đó họ đáp thuyền qua đảo Chíp. Đến Xa-la-mi họ rao giảng Tin Mừng của Thượng Đế trong các hội đường Do-thái. Giăng Mác cùng đi để giúp đỡ họ.

Họ đi qua suốt đảo Ba-phô và gặp một thuật sĩ Do-thái tên Ba-Giê-xu. Hắn là một tiên tri giả lúc nào cũng ở cạnh Xẹt-gu Phao-lúc, quan tổng đốc và là người rất khôn ngoan. Ông mời Ba-na-ba và Sau-lơ đến vì ông muốn nghe lời Chúa. Nhưng Ê-ly-ma, tay thuật sĩ, nhất định chống đối. (Ê-ly-ma là tên Ba-Giê-xu trong tiếng Hi-lạp.) Hắn tìm cách ngăn cản không cho quan tổng đốc tin theo Chúa Giê-xu. Nhưng Sau-lơ, cũng gọi là Phao-lô, đầy dẫy Thánh Linh, nhìn thẳng vào Ê-ly-ma 10 và quở, “Nầy con của ma quỉ! Anh chống nghịch điều lành! Anh đầy dẫy mưu mô xảo trá, lúc nào cũng tìm cách biến sự thật Chúa thành những điều dối gạt. 11 Giờ đây Chúa sẽ đụng đến anh, anh sẽ bị mù, không thấy gì cả trong một thời gian—đến nỗi không thấy được ánh sáng mặt trời nữa.”

Bỗng nhiên, Ê-ly-ma thấy mọi vật tối sầm lại, hắn mò mẫm chung quanh tìm người dắt tay mình. 12 Quan tổng đốc thấy thế liền tin nhận Chúa vì ông sững sờ về sự dạy dỗ của Ngài.

Phao-lô và Ba-na-ba rời đảo Chíp

13 Phao-lô và những bạn đồng hành đáp thuyền từ Ba-phô đến Bẹt-ga, thuộc miền Băm-phi-ly. Đến đó Giăng Mác bỏ họ và trở về lại Giê-ru-sa-lem. 14 Họ tiếp tục cuộc hành trình từ Bẹt-ga đến An-ti-ốt, một thành phố miền Bi-xi-đi. Vào ngày Sa-bát họ vào hội đường ngồi. 15 Sau khi người ta đọc xong luật Mô-se và các lời tiên tri thì các vị lãnh đạo hội đường hỏi Phao-lô và Ba-na-ba, “Nếu các ông có điều gì để khích lệ mọi người thì xin cứ nói đi.”

16 Phao-lô đứng dậy, giơ tay lên nói, “Thưa các anh chị em Ít-ra-en và những người thờ kính Thượng Đế, xin nghe đây! 17 Thượng Đế của Ít-ra-en đã chọn các tổ tiên chúng ta. Ngài khiến cho dân ta thành một dân lớn trong thời gian họ cư ngụ ở Ai-cập. Ngài đem họ ra khỏi nước ấy bằng quyền năng lớn lao của Ngài. 18 Ngài chịu đựng họ suốt bốn mươi năm trong sa mạc. 19 Thượng Đế tiêu diệt bảy dân tộc trong đất Ca-na-an rồi trao lãnh thổ ấy cho dân tộc của Ngài. 20 Các việc ấy diễn ra trong vòng bốn trăm năm mươi năm.

Sau đó, Thượng Đế cho họ các quan án cho đến đời nhà tiên tri Sa-mu-ên. 21 Lúc dân chúng xin một vua, thì Ngài cho họ Sau-lơ, con của Kích. Sau-lơ thuộc chi tộc Bên-gia-min. Ông làm vua trong bốn mươi năm. 22 Sau khi phế bỏ ông, Thượng Đế chọn Đa-vít làm vua họ. Ngài nói về Đa-vít như sau, ‘Ta đã tìm được trong Đa-vít, con của Giê-xê, một mẫu người mà ta muốn. Người sẽ làm theo ý ta.’ 23 Thượng Đế đã đưa Chúa Giê-xu, một người thuộc dòng dõi Đa-vít, đến cho dân Ít-ra-en để làm Cứu Chúa của họ đúng như Ngài đã hứa. 24 Trước khi Chúa Giê-xu đến, Giăng giảng lễ báp-têm về sự ăn năn cho toàn dân Ít-ra-en. 25 Sau khi làm xong công tác, Giăng nói, ‘Các ông bà nghĩ tôi là ai? Tôi không phải là Chúa Cứu Thế. Ngài sẽ đến sau, còn tôi không xứng đáng cởi dép cho Ngài.’

26 Thưa các anh chị em là con cháu của gia đình Áp-ra-ham và những người không phải Do-thái đang thờ phụng Thượng Đế, xin nghe đây! Tin Mừng về sự cứu rỗi nầy đã đến với chúng ta. 27 Dân chúng Giê-ru-sa-lem và các nhà lãnh đạo không nhận biết Chúa Giê-xu là Cứu Chúa. Họ không hiểu lời các nhà tiên tri mà họ nghe đọc mỗi ngày Sa-bát. Nhưng khi họ kết tội Chúa Giê-xu, thì vô tình họ đã thực hiện các lời tiên tri. 28 Mặc dù họ không tìm được lý do chính đáng nào để xử tử Chúa Giê-xu nhưng vẫn đòi Phi-lát giết Ngài. 29 Khi đã thực hiện xong tất cả những gì Thánh Kinh viết thì họ đem xác Ngài xuống khỏi cây thập tự và chôn trong mộ. 30 Nhưng Thượng Đế đã khiến Ngài sống lại từ trong kẻ chết! 31 Sau đó, những người đã từng theo Chúa Giê-xu từ Ga-li-lê đến Giê-ru-sa-lem nhìn thấy Chúa trong nhiều ngày. Hiện nay họ là những nhân chứng trước mặt dân chúng. 32 Chúng tôi thuật cho anh chị em Tin Mừng về lời mà Thượng Đế hứa cùng các tổ tiên chúng ta. 33 Thượng Đế đã làm thành lời hứa ấy cho chúng ta là con cái Ngài bằng cách khiến Chúa Giê-xu sống lại từ kẻ chết. Chúng ta đọc trong sách Thi thiên chương 2 như sau:

‘Ngươi là Con ta.
    Ngày nay ta sinh ngươi.’ (A)

34 Thượng Đế đã khiến Chúa Giê-xu sống lại từ kẻ chết, Ngài sẽ không trở lại mồ mả để thành tro bụi nữa. Ngài phán:

‘Ta sẽ cho ngươi những ân phúc thánh và vững chắc
    mà ta đã hứa cùng Đa-vít.’ (B)

35 Còn trong một chỗ khác, Thượng Đế phán:

‘Ngài không để Đấng Thánh của Ngài bị mục nát.’ (C)

36 Trọn đời sống Đa-vít làm theo ý Chúa. Khi chết ông được chôn bên cạnh các tổ tiên, thân xác ông bị mục nát trong mồ mả. 37 Nhưng Đấng mà Thượng Đế khiến sống lại từ kẻ chết không bị mục nát trong mồ mả. 38-39 Thưa anh chị em, anh chị em phải hiểu điều chúng tôi nói: Anh chị em có thể được tha tội qua Chúa Giê-xu. Luật pháp Mô-se không thể giải thoát anh chị em khỏi tội. Nhưng hễ ai tin thì đều được giải thoát khỏi tội lỗi qua Chúa Giê-xu. 40 Phải cẩn thận! Đừng để những gì các nhà tiên tri đã cảnh cáo xảy đến cho mình:

41 ‘Hỡi dân hay nghi ngờ, hãy nghe đây!
    Ngươi có thể sững sờ, rồi qua đời.
Trong đời ngươi, ta sẽ làm một việc
    mà ngươi sẽ không chịu tin
    dù cho có người thuật lại cho ngươi!’” (D)

42 Lúc Phao-lô và Ba-na-ba rời hội đường thì dân chúng yêu cầu hai ông đến ngày Sa-bát sau giảng thêm cho họ nghe nữa. 43 Nhóm họp xong, nhiều người Do-thái và những người mới theo đạo Do-thái và thờ kính Thượng Đế, từ hội đường đi theo Phao-lô và Ba-na-ba. Hai người khuyên họ cứ vững tin nơi ân phúc của Thượng Đế.

44 Ngày Sa-bát sau, hầu hết dân chúng trong thành phố đều đến nghe lời Chúa. 45 Thấy dân chúng đến đông, những người Do-thái đâm ra đố kỵ, thốt lên những lời nhục mạ và cãi vã lại những điều Phao-lô nói. 46 Nhưng Phao-lô và Ba-na-ba nói rất mạnh dạn rằng, “Chúng tôi đã rao truyền lời của Thượng Đế cho các ông trước. Nhưng vì các ông không chịu nghe, tự cho mình không đáng nhận sự sống đời đời, cho nên chúng tôi mới quay sang các dân tộc khác. 47 Đó chính là điều Chúa dặn chúng tôi,

‘Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng cho các dân;
    ngươi sẽ chỉ cho mọi dân trên thế giới con đường cứu rỗi.’” (E)

48 Những người không phải Do-thái nghe Phao-lô nói thế rất vui mừng và càng ham chuộng lời của Chúa. Những ai đã được lựa chọn để nhận sự sống đời đời đều tin lời ấy.

49 Lời Chúa được lan truyền ra khắp xứ. 50 Nhưng người Do-thái xúi giục một số các phụ nữ mộ đạo có uy tín và các giới lãnh đạo trong thành phố. Họ gây rối chống lại Phao-lô, Ba-na-ba và trục xuất hai người ra khỏi vùng ấy. 51 Vì thế Phao-lô và Ba-na-ba phủi bụi khỏi chân [c] mình rồi đi sang Y-cô-ni. 52 Còn các tín hữu hết sức vui mừng và đầy Thánh Linh.

Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)

Copyright © 2010 by World Bible Translation Center