Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)
Version
Sáng Thế 20

Áp-ra-ham đi xuống Ghê-ra

20 Áp-ra-ham rời Hếp-rôn đi đến miền Nê-ghép, cư ngụ giữa Ca-đe và Su-rơ một thời gian. Khi đến Ghê-ra thì ông bảo mọi người rằng Sa-ra là em gái mình. A-bi-mê-léc, vua Ghê-ra nghe thế liền sai mấy đầy tớ cho bắt Sa-ra. Nhưng một đêm kia Thượng Đế bảo A-bi-mê-léc trong chiêm bao rằng, “Con sẽ chết, vì người đàn bà con lấy đã có chồng rồi.”

Nhưng A-bi-mê-léc chưa lại gần Sa-ra nên ông thưa, “Lạy CHÚA, Ngài sẽ tiêu diệt cả một dân tộc vô tội sao? Chính Áp-ra-ham đã bảo con, ‘Người đàn bà nầy là em gái tôi,’ mà chính nàng cũng đã nói với con, ‘Ông nầy là anh tôi.’ Cho nên con vô tội. Con đâu có biết mình làm sai trái?”

Thượng Đế trả lời A-bi-mê-léc trong mộng, “Phải, ta biết con không biết mình làm sai. Cho nên ta không cho phép con phạm tội cùng ta và đụng đến nàng. Hãy trả lại vợ cho Áp-ra-ham. Ông ta là nhà tiên tri đó. Ông ta sẽ cầu khẩn cho con thì con mới khỏi chết. Nếu con không trả Sa-ra lại thì con và cả nhà chắc chắn sẽ chết.”

Nên sáng sớm hôm sau, A-bi-mê-léc triệu tập các cận thần và thuật lại cho họ nghe sự việc ông thấy trong mộng. Ai nấy đều đâm sợ. A-bi-mê-léc liền gọi Áp-ra-ham lại bảo, “Anh đã làm gì cho chúng ta vậy? Ta đã làm gì sai trái với anh? Tại sao anh gây tội tày đình cho nước ta, bằng cách khiến ta làm điều sai trái? 10 Tại sao anh lại hành động như vậy?”

11 Áp-ra-ham thưa, “Tôi nghĩ trong xứ nầy không có ai kính sợ Thượng Đế cả, nên có thể sẽ có người giết tôi để đoạt Sa-ra. 12 Thật ra nàng là em gái tôi. Nàng là con của cha tôi nhưng khác mẹ, và tôi lấy nàng làm vợ. 13 Khi Thượng Đế bảo tôi rời nhà cha tôi đi lang thang đây đó thì tôi dặn Sa-ra, ‘Em phải làm ơn cho anh một điều. Bất cứ đi đâu cũng phải nói anh là anh của em nghe chưa.’”

14 Rồi A-bi-mê-léc cấp cho Áp-ra-ham một số chiên, gia súc, tôi trai tớ gái, và cũng trả lại vợ, là Sa-ra cho ông. 15 Rồi vua bảo, “Hãy xem quanh xứ ta! Ngươi muốn định cư đâu tùy ý.”

16 A-bi-mê-léc bảo Sa-ra, “Ta cho anh ngươi hai mươi lăm cân bạc để đền bù lại điều hiểu lầm của người ta về ngươi. Ta muốn mọi người biết rằng ngươi vô tội.”

17 Sau đó Áp-ra-ham cầu khẩn cùng CHÚA. Ngài chữa lành cho A-bi-mê-léc, cùng hoàng hậu và các tớ gái, để họ có con. 18 Vì CHÚA đã không cho người đàn bà nào trong nhà A-bi-mê-léc có con cả, để phạt vua về tội đoạt vợ của Áp-ra-ham.

Ma-thi-ơ 19

Chúa Giê-xu dạy về sự ly dị(A)

19 Sau khi dạy xong những điều ấy, Chúa Giê-xu rời vùng Ga-li-lê đi đến miền Giu-đia phía bên kia sông Giô-đanh. Dân chúng theo Ngài rất đông, Ngài chữa lành họ ở đó.

Có mấy người Pha-ri-xi đến gặp Chúa Giê-xu và định gài bẫy Ngài. Họ hỏi, “Không cần biết vì lý do gì, người đàn ông có được phép ly dị vợ hay không?”

Chúa Giê-xu đáp, “Chắc hẳn các ông đã đọc trong Thánh Kinh rằng: Khi Thượng Đế sáng tạo thế gian, ‘Ngài dựng nên loài người gồm nam và nữ.’ [a] Thượng Đế phán rằng, ‘Người nam sẽ rời cha mẹ mà kết hiệp với vợ mình, và hai người sẽ trở thành một thân.’ [b] Cho nên họ không còn là hai người nữa mà chỉ có một mà thôi. Vì Thượng Đế đã kết hiệp hai người, cho nên không ai được phân rẽ họ.”

Người Pha-ri-xi hỏi, “Vậy tại sao Mô-se cho phép người đàn ông ly dị vợ bằng cách trao cho vợ giấy ly hôn?”

Chúa Giê-xu đáp, “Mô-se cho phép các ông ly dị vợ là vì các ông không chịu chấp nhận lời dạy bảo của Thượng Đế; nhưng từ ban đầu không được phép ly dị đâu. Ta bảo cho các ông biết, ai ly dị vợ và cưới người đàn bà khác là phạm tội ngoại tình. Lý do duy nhất mà người đàn ông có thể ly dị vợ là nếu vợ mình ăn nằm với người đàn ông khác.”

10 Các môn đệ thưa với Ngài, “Nếu đó là lý do duy nhất để ly dị, thì chẳng thà đừng lập gia đình còn hơn.”

11 Chúa Giê-xu đáp, “Không phải ai cũng có thể chấp nhận lời dạy nầy đâu. Thượng Đế khiến cho một ít người có khả năng chấp nhận thôi. 12 Có nhiều lý do khiến một người không lập gia đình được. Có người sinh ra là đã không thể có con rồi [c]. Có người về sau bị tình trạng ấy do người khác gây ra. Cũng có người không lập gia đình vì Nước Trời. Nhưng ai có thể lập gia đình được phải chấp nhận lời dạy dỗ nầy về hôn nhân.” [d]

Chúa Giê-xu tiếp nhận các trẻ thơ(B)

13 Lúc ấy người ta mang các trẻ thơ đến cùng Chúa Giê-xu để Ngài đặt tay lên và cầu nguyện cho chúng nó nhưng các môn đệ Ngài ngăn cản họ. 14 Nhưng Chúa Giê-xu bảo rằng, “Hãy để các trẻ thơ đến với ta, đừng ngăn trở, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng nó.” 15 Sau khi đặt tay trên các trẻ em, Ngài rời vùng ấy.

Câu hỏi của một thanh niên giàu có(C)

16 Có một người đến hỏi Chúa Giê-xu, “Thưa thầy, tôi phải làm việc thiện gì để hưởng được sự sống đời đời?”

17 Chúa Giê-xu đáp, “Sao anh hỏi ta về việc thiện? Chỉ có một Đấng thiện là Thượng Đế mà thôi. Nhưng nếu anh muốn được sự sống đời đời thì phải vâng giữ các mệnh lệnh.”

18 Người đó hỏi, “Thưa thầy, mệnh lệnh gì?”

Chúa Giê-xu đáp, “‘Không được giết người; không được phạm tội ngoại tình; không được trộm cắp; không được đặt điều nói dối về người láng giềng mình; 19 hãy hiếu kính cha mẹ’ [e] và phải ‘yêu người láng giềng [f] như mình vậy.’ [g]

20 Chàng thanh niên ấy thưa, “Tôi đã vâng giữ mọi điều ấy. Tôi còn phải làm gì nữa?”

21 Chúa Giê-xu đáp, “Nếu anh muốn được hoàn toàn, hãy đi bán hết tài sản, lấy tiền biếu người nghèo. Làm như thế anh sẽ có của báu trên thiên đàng. Rồi đến theo ta.”

22 Nhưng khi nghe vậy thì anh rầu rĩ bỏ đi vì anh giàu lắm.

23 Chúa Giê-xu bảo các môn đệ, “Ta bảo thật, rất khó cho người giàu vào nước thiên đàng. 24 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Trời.”

25 Nghe vậy các môn đệ Ngài vô cùng ngạc nhiên. Họ hỏi, “Thế thì ai được cứu?”

26 Chúa Giê-xu nhìn họ đáp, “Việc đó con người làm không được đâu nhưng Thượng Đế làm được mọi việc.”

27 Phia-rơ thưa với Ngài, “Thầy xem, chúng con đã bỏ tất cả để đi theo thầy. Vậy chúng con sẽ nhận được gì?”

28 Chúa Giê-xu bảo họ, “Ta bảo thật, thời kỳ đến, Con Người sẽ ngồi trên ngôi cao cả của Ngài. Tất cả các con là người đã theo ta sẽ được ngồi trên mười hai ngôi để xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en. 29 Còn ai đã bỏ nhà cửa, anh em, cha mẹ con cái, đất ruộng để theo ta thì sẽ nhận được nhiều hơn những gì họ đã từ bỏ, và được hưởng sự sống đời đời. 30 Trong tương lai, nhiều người hiện ở địa vị cao sẽ bị đem xuống chỗ thấp nhất, còn nhiều người hiện ở địa vị thấp nhất sẽ được mang lên chỗ cao nhất.”

Nê-hê-mi-a 9

Dân Ít-ra-en xưng tội

Vào ngày hai mươi bốn tháng đó, dân Ít-ra-en họp nhau lại. Họ cữ ăn và mặc vải sô, phủ bụi đất lên đầu để tỏ sự buồn thảm. Những người gốc Ít-ra-en tách ra khỏi những người ngoại quốc. Họ đứng lên xưng tội mình và tội của tổ tiên mình. Họ đứng suốt ba tiếng đồng hồ liền để nghe đọc Sách Giáo Huấn của CHÚA là Thượng Đế của họ. Ba tiếng đồng hồ kế tiếp họ xưng tội và thờ phụng CHÚA là Thượng Đế của họ. Những người Lê-vi sau đây đứng trên bậc thang: Giê-sua, Ba-ni, Cát-miên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni, và Ca-na-ni. Họ lớn tiếng kêu cầu cùng CHÚA là Thượng Đế mình. Rồi những người Lê-vi sau đây lên tiếng: Giê-sua, Cát-miên, Ba-ni, Ha-sáp-nê-gia, Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia, và Bê-tha-hia. Họ bảo,

“Hãy đứng dậy ca ngợi CHÚA là Thượng Đế các ngươi, Đấng sống đời đời.”

Lời cầu nguyện của dân chúng

“Đáng chúc tụng danh kỳ diệu của Ngài.
    Danh đó thật diệu kỳ hơn những lời chúc tụng và ca ngợi.
Ngài là CHÚA duy nhất.
    Ngài tạo nên trời và các từng trời rất cao,
    cùng các ngôi sao.
Ngài dựng nên trái đất và mọi loài trong đó,
    Biển và mọi loài trong biển;
Ngài ban sự sống cho mọi loài.
    Các thiên thần phụng thờ Ngài.
Ngài là CHÚA, là Thượng Đế,
    Đấng đã chọn Áp-ram,
mang người ra khỏi U-rơ thuộc vùng Ba-by-lôn
    và đổi tên người ra Áp-ra-ham.
Ngài nhận thấy người trung tín với Ngài,
    cho nên Ngài lập ước với người
hứa cho dòng dõi người đất của dân Ca-na-an,
    dân Hê-tít, dân A-mô-rít,
dân Phê-ri-sít, dân Giê-bu-sít, và dân Ghi-ga-sít.
    Ngài đã giữ lời hứa mình,
Vì Ngài luôn luôn làm điều phải.
Ngài thấy các tổ tiên chúng tôi khổ sở nơi Ai-cập,
và nghe họ kêu khóc nơi Hồng hải.
10 Ngài làm nhiều điều kỳ diệu nghịch lại vua Ai-cập,
    nghịch lại các quần thần và dân chúng của người,
vì Ngài biết họ rất tự phụ.
    Ngài nổi danh như ngày nay.
11 Ngài rẽ biển trước mắt tổ tiên chúng tôi;
    họ đi ngang qua trên đất khô,
Nhưng Ngài xô những kẻ đuổi theo họ xuống nước sâu,
    như hòn đá bị quăng vào dòng nước chảy mạnh.
12 Ban ngày Ngài dẫn dắt các tổ tiên chúng tôi bằng một trụ mây,
    còn ban đêm bằng một trụ lửa.
Chúng soi đường để dân chúng đi.
13 Ngài ngự xuống trên núi Si-nai,
    từ trời Ngài phán với tổ tiên chúng tôi.
Ngài ban cho họ các luật lệ công bình
    và những lời giáo huấn chân thật,
    những huấn lệnh và chỉ thị tốt lành.
14 Ngài dạy họ về ngày Sa-bát thánh,
    và ban cho họ các chỉ thị, huấn lệnh
    qua Mô-se, tôi tớ Ngài.
15 Khi họ đói, Ngài ban cho họ bánh từ trời.
    Khi họ khát, Ngài ban cho họ nước uống từ tảng đá.
Ngài bảo họ hãy vào chiếm xứ mà Ngài đã hứa ban cho họ.
16 Nhưng các tổ tiên chúng tôi kiêu căng và ương ngạnh,
    không vâng huấn lệnh của Ngài.
17 Họ không thèm nghe;
    họ quên những phép lạ Ngài làm cho họ.
Họ đâm ra ương ngạnh,
    chống nghịch Ngài,
và tự chọn cho mình một người lãnh đạo
    để đem họ trở về ách nô lệ.
    Nhưng Ngài là Thượng Đế hay tha thứ.
Đầy lòng từ ái.
    Ngài chậm nóng giận, giàu tình yêu lớn.
    Nên Ngài không lìa bỏ họ.
18 Thậm chí các tổ tiên chúng tôi làm cho mình một tượng bò con.
Họ bảo, ‘Ít-ra-en ơi, đây là thần
    đã mang ngươi ra khỏi Ai-cập.’
Họ nói phạm đến Ngài.
19 Ngài giàu lòng từ ái,
    nên không bỏ rơi họ trong sa mạc.
Ban ngày có trụ mây dẫn đường,
    ban đêm có trụ lửa soi sáng lối đi.
20 Ngài ban Thánh Linh nhân từ Ngài dạy dỗ họ.
    Ban ma-na cho họ ăn và nước uống khi họ khát.
21 Trong suốt bốn mươi năm Ngài săn sóc họ;
    Họ không thiếu thốn gì hết.
Áo quần họ không sờn,
    Chân họ không sưng phù.
22 Ngài ban cho họ các vương quốc và các dân tộc;
    và cấp thêm đất cho họ.
Họ chiếm xứ Si-hôn, vua của Hết-bôn
    và xứ Óc, vua của Ba-san.
23 Ngài khiến cho con cháu họ đông như sao trên trời,
    mang họ vào xứ mà Ngài bảo các tổ tiên họ vào chiếm lấy.
24 Cho nên các con cháu họ vào chiếm lấy xứ.
    Người Ca-na-an đang sống trong xứ,
    nhưng Ngài đánh bại dân ấy.
Ngài trao người Ca-na-an vào tay họ,
    các vua chúng, và toàn dân của xứ,
để tổ tiên chúng tôi có thể mặc tình
    đối xử với chúng.
25 Họ chiếm các thành trì vững chắc có vách cao
    và đất đai phì nhiêu.
Họ chiếm nhà cửa có đầy đủ mọi thứ,
    giếng đã đào sẵn,
cùng vườn nho, cây ô liu, và các cây ăn trái.
    Họ ăn uống cho đến khi no say và mập béo;
    Họ tận hưởng ơn phước dồi dào của Ngài.
26 Nhưng họ bất tuân và chống nghịch Ngài,
    không đếm xỉa đến lời giáo huấn Ngài.
Các tiên tri Ngài khuyên răn họ trở về cùng Ngài,
    Nhưng họ giết các tiên tri và nói phạm cùng Ngài.
27 Nên Ngài trao họ vào tay các kẻ thù,
    để chúng ngược đãi họ.
Nhưng trong cơn khốn khổ các tổ tiên chúng tôi
    kêu khóc cùng CHÚA,
    từ trời Ngài liền nghe.
CHÚA có lòng từ bi lớn
    nên sai các người giải cứu đến giải phóng họ
    khỏi quyền lực kẻ thù.
28 Nhưng vừa khi họ được an tịnh,
    họ lại làm ác.
Ngài liền trao họ cho kẻ thù thống trị họ.
    Họ lại kêu khóc cùng Ngài,
    từ trời Ngài nghe họ.
Vì lòng từ bi Ngài,
    Ngài giải cứu họ nhiều lần.
29 Ngài khuyên răn họ trở về
    với lời giáo huấn Ngài,
    nhưng họ tự phụ,
    không vâng theo huấn lệnh CHÚA,
là luật mà nếu ai vâng theo thì sẽ sống.
    Nhưng họ quay lưng khỏi Ngài.
Họ ương ngạnh, bướng bỉnh, và không vâng lời.

30 Ngài kiên nhẫn với họ trong nhiều năm,
    dùng Thánh Linh Ngài qua các nhà tiên tri
    mà cảnh cáo họ,
nhưng họ chẳng thèm để ý.
    Nên Ngài trao họ vào tay các quốc gia khác.

31 Nhưng do lòng từ bi lớn lao,
    CHÚA không tuyệt diệt hay bỏ rơi họ.
Ngài là Thượng Đế nhân từ và bác ái.
32 Cho nên, Thượng Đế của chúng tôi ơi,
    Ngài là Thượng Đế cao cả, quyền năng và kỳ diệu.
Ngài giữ giao ước của tình yêu.
    Xin đừng làm ngơ trước những nỗi khốn khổ của chúng tôi.
Những nỗi khốn khổ nầy đến trên chúng tôi,
    trên vua và các nhà lãnh đạo của chúng tôi,
    trên các thầy tế lễ và các nhà tiên tri,
    Trên các tổ tiên và dân tộc Ngài
    từ đời các vua A-xy-ri cho đến hôm nay.
33 Những gì xảy ra cho chúng tôi thật xứng đáng
    vì Ngài rất công bằng;
Ngài thành tín nhưng chúng tôi quá gian ác.
34 Các vua, các nhà lãnh đạo,
    các thầy tế lễ, và các tổ tiên chúng tôi không nghe theo lời giáo huấn Ngài;
Họ không thèm để ý đến những huấn lệnh
    và lời cảnh cáo Ngài.
35     Dù trong khi các tổ tiên chúng tôi
    đang sống trong xứ,
    vui hưởng những ơn lành Ngài ban cho,
tận hưởng đất đai phì nhiêu và khoảng khoát,
    họ cũng vẫn cứ làm điều ác.
36 Vì thế ngày nay chúng tôi bị làm tôi mọi
    trong xứ Ngài ban cho tổ tiên chúng tôi.
Đáng lẽ họ vui hưởng hoa quả và phúc lành,
    Mà bây giờ chúng tôi phải làm nô lệ tại đây.
37 Mùa màng tốt đẹp của xứ thuộc về các vua
    mà Ngài đặt lên thống trị chúng tôi,
    vì tội lỗi chúng tôi.
Các vua đó hống hách thống trị chúng tôi
    và gia súc chúng tôi,
    cho nên chúng tôi gặp khốn đốn.

Giao ước của dân chúng

38 Vì những lý do đó, nay chúng tôi lập một giao ước viết ra chữ.
Các vị lãnh đạo, các người Lê-vi, và các thầy tế lễ đóng ấn họ vào đó.”

Công Vụ Các Sứ đồ 19

Phao-lô ở Ê-phê-sô

19 Trong khi A-bô-lô đang ở Cô-rinh, thì Phao-lô viếng qua vài nơi trên đường đi đến Ê-phê-sô. Ở đó Phao-lô gặp một số tín hữu. Ông hỏi, “Từ khi tin đạo, anh chị em đã nhận lãnh được Thánh Linh chưa?”

Họ đáp, “Chúng tôi chưa hề nghe nói đến Thánh Linh nào cả.”

Nên Phao-lô hỏi, “Vậy anh chị em chịu lễ báp-têm của ai?”

Họ đáp, “Lễ báp-têm của Giăng.”

Phao-lô bảo, “Lễ báp-têm của Giăng là báp-têm về sự ăn năn để được tha tội. Giăng khuyên dân chúng tin nhận Đấng sẽ đến sau mình. Đấng đó là Chúa Giê-xu.”

Khi nghe vậy, họ liền chịu lễ báp-têm trong danh Chúa Giê-xu. Lúc Phao-lô đặt tay lên họ, thì họ nhận được Thánh Linh. Họ bắt đầu nói các thứ ngôn ngữ khác và nói tiên tri. Có khoảng mười hai người trong nhóm ấy.

Phao-lô đi vào hội đường và mạnh dạn giảng dạy trong suốt ba tháng. Ông nói chuyện với các người Do-thái và khuyên họ chấp nhận những điều ông nói về Nước Trời. Nhưng có mấy người Do-thái tỏ ra ương ngạnh. Họ chẳng những không chịu tin mà còn buông lời thô bỉ chống Đạo Chúa Giê-xu trước mặt dân chúng. Nên Phao-lô bỏ họ, mang theo một số tín hữu đi đến trường học của một người tên Ti-ra-nu và giảng dạy dân chúng mỗi ngày 10 suốt hai năm. Nhờ công tác của Phao-lô mà người Do-thái và Hi-lạp nào ở miền Tiểu Á cũng đều được nghe lời Chúa.

Các con trai của Xê-va

11 Thượng Đế dùng Phao-lô làm nhiều phép lạ lớn lao. 12 Vài người lấy khăn tay và quần áo Phao-lô đã dùng mà đặt trên người bệnh thì được lành và ác quỉ ra khỏi họ.

13 Nhưng có một số người Do-thái đi nhiều nơi đuổi quỉ. Họ dùng danh Chúa Giê-xu để đuổi quỉ bằng cách ra lệnh, “Ta nhân danh Chúa Giê-xu mà Phao-lô rao giảng, truyền cho mầy phải đi ra!” 14 Những người làm chuyện ấy là bảy con trai của Xê-va, một thầy tế lễ cao cấp.

15 Nhưng có lần quỉ bảo họ, “Ta biết Chúa Giê-xu, cũng biết Phao-lô, còn mấy anh là ai?”

16 Người bị quỉ ám liền xông vào họ. Vì người đó quá mạnh nên các cậu con trai đều bị thương, trần truồng bỏ chạy trốn. 17 Toàn thể dân chúng Ê-phê-sô—từ người Do-thái đến người Hi-lạp—nghe chuyện ấy đều sợ hãi và hết sức tôn kính Chúa Giê-xu. 18 Nhiều tín hữu bắt đầu xưng tội công khai về những việc xấu mình làm. 19 Có kẻ trước kia dùng tà thuật, nay gom sách vở lại đốt hết trước mặt mọi người. Các sách ấy trị giá khoảng năm mươi ngàn đồng bạc. [a] 20 Lời Chúa càng ngày càng lan rộng mạnh mẽ.

Phao-lô hoạch định chuyến du hành

21 Sau đó, Phao-lô quyết định lên Giê-ru-sa-lem. Trước hết ông dự định ghé qua các xứ thuộc Ma-xê-đoan và Nam Hi-lạp rồi đến Giê-ru-sa-lem. Ông bảo, “Sau khi ghé thăm Giê-ru-sa-lem, tôi cũng muốn thăm La-mã nữa.” 22 Phao-lô gởi hai đồng nghiệp là Ti-mô-thê và Ê-rát-tu đi trước đến Ma-xê-đoan, còn ông thì ở lại vùng Tiểu Á một thời gian nữa.

Náo loạn tại Ê-phê-sô

23 Trong lúc đó có náo loạn lớn vì đạo Chúa tại Ê-phê-sô. 24 Có một thợ bạc tên Đê-mê-triu, chế ra những mô hình nhỏ bằng bạc của đền thờ nữ thần Ạt-tê-mít [b]. Những kẻ làm nghề ấy kiếm rất nhiều tiền. 25 Đê-mê-triu nhóm họp các đồng nghiệp và bàn, “Các bạn biết chúng ta kiếm khá nhiều tiền trong nghề nầy. 26 Nhưng hãy coi tên Phao-lô hại chúng ta biết bao nhiêu. Hắn thuyết phục nhiều người ở Ê-phê-sô và hầu hết dân chúng vùng Tiểu Á! Hắn nói rằng những thần do người làm ra không phải là thần. 27 Ngoài cái nguy là công việc làm ăn của chúng ta mất uy tín, còn cái nguy khác là dân chúng sẽ bắt đầu cho rằng đền thờ của đại nữ thần Ạt-tê-mít không ra gì nữa. Uy danh lớn của nữ thần sẽ bị tiêu diệt vì Ạt-tê-mít là nữ thần mà mọi người trong vùng Tiểu Á và cả thế giới tôn thờ.”

28 Khi các người kia nghe thế liền nổi giận hét lên, “Ạt-tê-mít là đại nữ thần của Ê-phê-sô!” 29 Cả thành xôn xao. Dân chúng bắt Gai-út và A-ri-tạc, hai bạn đồng hành của Phao-lô từ Ma-xê-đoan đến, xong chạy ùa tới rạp hát. 30 Phao-lô muốn đi vào nói chuyện với quần chúng nhưng các tín hữu không cho. 31 Ngoài ra, vài nhà cầm quyền vùng Tiểu Á, bạn của Phao-lô nhắn và khuyên ông chớ nên đi đến rạp hát. 32 Người thì la ó một đằng, kẻ thì hét lên một nẻo. Cuộc họp trở thành cực kỳ hỗn loạn. Đa số dân chúng đều không hiểu tại sao mình lại đến đó. 33 Người Do-thái bắt một người tên A-lịch-sơn đẩy ra trước công chúng rồi vài người biểu ông lên tiếng. A-lịch-sơn giơ tay ra hiệu muốn giải thích cho dân chúng. 34 Nhưng khi chúng thấy A-lịch-sơn là người Do-thái thì đồng thanh la lớn suốt hai giờ liền, “Ạt-tê-mít là đại nữ thần của người Ê-phê-sô!”

35 Bấy giờ viên tổng thư ký thành phố yêu cầu họ im lặng rồi bảo, “Dân Ê-phê-sô ơi, ai cũng biết Ê-phê-sô là thành phố bảo tồn đền thờ của đại nữ thần Ạt-tê-mít và tượng thánh [c] của nữ thần từ trời rơi xuống. 36 Vì không ai chối cãi được điều ấy nên các bạn hãy bình tĩnh. Phải đắn đo suy nghĩ trước khi hành động. 37 Các bạn giải mấy người nầy [d] đến đây, nhưng họ chưa có nói gì nghịch lại nữ thần của chúng ta hoặc đánh cắp món gì trong đền thờ của nữ thần cả. 38 Nếu Đê-mê-triu và các đồng nghiệp của anh ta muốn kiện cáo ai, thì họ nên ra trước tòa và các quan tòa để hai bên đối chất nhau. 39 Còn các bạn muốn thảo luận về vấn đề gì khác thì chờ đến phiên họp thường xuyên của hội đồng thành phố quyết định. 40 Tôi nói thế là vì nếu người ta thấy cuộc lộn xộn bữa nay thì sẽ đoán rằng chúng ta định gây loạn. Chúng ta không thể giải thích hành động nầy, vì thực tình buổi tập họp hôm nay chẳng có lý do chính đáng nào cả.” 41 Sau khi viên tổng thư ký thành phố nói xong thì cho họ ra về.

Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)

Copyright © 2010 by World Bible Translation Center