Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Dân Số 7

Lễ Vật Các Tộc Trưởng Dâng Vào Ðền Tạm

Vào ngày Môi-se hoàn tất công việc xây dựng Ðền Tạm –tức sau khi ông đã xức dầu và biệt riêng ra thánh Ðền Tạm cùng với mọi vật dụng trong Ðền Tạm, và sau khi ông đã xức dầu và biệt riêng ra thánh bàn thờ cùng với mọi đồ phụ tùng của bàn thờ– những vị lãnh đạo của dân I-sơ-ra-ên, những tộc trưởng tức những thủ lãnh các chi tộc, và những người đã phụ giúp trong việc thống kê dân số đem các lễ vật của họ đến dâng. Họ mang các lễ vật đến dâng trước mặt Chúa, gồm sáu cỗ xe có mui và mười hai con bò đực, cứ hai vị dâng một cỗ xe, và mỗi vị dâng một con bò đực. Họ mang các lễ vật đó đến dâng trước Ðền Tạm.

Bấy giờ Chúa phán với Môi-se, “Ngươi hãy nhận các lễ vật họ mang đến dâng để dùng vào các công việc của Lều Hội Kiến. Hãy trao chúng cho người Lê-vi; trao cho mỗi dòng họ tùy theo nhu cầu công tác của họ.”

Vậy Môi-se nhận lấy các cỗ xe và các bò đực, rồi trao chúng cho người Lê-vi. Ông trao cho con cháu Ghẹt-sôn hai cỗ xe và bốn bò đực để dùng trong công tác của họ. Ông trao cho con cháu Mê-ra-ri bốn cỗ xe và tám bò đực để dùng trong công tác của họ, và đặt dưới quyền chỉ huy của I-tha-ma con trai Tư Tế A-rôn. Nhưng ông không trao cho con cháu Kê-hát gì hết, vì họ chịu trách nhiệm những vật thánh, là những thứ họ phải khiêng trên vai.

10 Các vị lãnh đạo cũng dâng các lễ vật cho sự cung hiến bàn thờ trong ngày bàn thờ được xức dầu biệt riêng ra thánh; các vị lãnh đạo đã mang các lễ vật của mình đến dâng trước bàn thờ. 11 Chúa đã nói với Môi-se rằng, “Mỗi ngày một người trong những người lãnh đạo sẽ thay phiên nhau mang các lễ vật đến dâng cho việc cung hiến bàn thờ.”

12 Người mang các lễ vật mình đến dâng ngày đầu tiên là Nát-sôn con trai Am-mi-na-đáp, thuộc chi tộc Giu-đa. 13 Các lễ vật của ông gồm: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram,[a] một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram,[b] theo đơn vị đo lường[c] của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 14 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram,[d] chứa đầy hương thơm, 15 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 16 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 17 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Nát-sôn con trai Am-mi-na-đáp.

18 Ngày thứ nhì, Nê-tha-nên con trai Xu-a, người lãnh đạo chi tộc I-sa-ca, mang các lễ vật của mình đến dâng. 19 Các lễ vật của ông dâng gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 20 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 21 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 22 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 23 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Nê-tha-nên con trai Xu-a.

24 Ngày thứ ba, Ê-li-áp con trai Hê-lôn, người lãnh đạo chi tộc Xê-bu-lun, mang các lễ vật của mình đến dâng. 25 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 26 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 27 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 28 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 29 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Ê-li-áp con trai Hê-lôn.

30 Ngày thứ tư, Ê-li-xu con trai Sê-đê-ua, người lãnh đạo chi tộc Ru-bên, mang các lễ vật của mình đến dâng. 31 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 32 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 33 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 34 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 35 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Ê-li-xu con trai Sê-đê-ua.

36 Ngày thứ năm, Sê-lu-mi-ên con trai Xu-ri-sa-đai, người lãnh đạo chi tộc Si-mê-ôn, mang các lễ vật của mình đến dâng. 37 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 38 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 39 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 40 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 41 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Sê-lu-mi-ên con trai Xu-ri-sa-đai.

42 Ngày thứ sáu, Ê-li-a-sáp con trai Ðê-u-ên, người lãnh đạo chi tộc Gát, mang các lễ vật của mình đến dâng. 43 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 44 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 45 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 46 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 47 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Ê-li-a-sáp con trai Ðê-u-ên.

48 Ngày thứ bảy, Ê-li-sa-ma con trai Am-mi-hút, người lãnh đạo chi tộc Ép-ra-im, mang các lễ vật của mình đến dâng. 49 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 50 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 51 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 52 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 53 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Ê-li-sa-ma con trai Am-mi-hút.

54 Ngày thứ tám, Ga-ma-li-ên con trai Pê-đa-xu, người lãnh đạo chi tộc Ma-na-se, mang các lễ vật của mình đến dâng. 55 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 56 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 57 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 58 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 59 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Ga-ma-li-ên con trai Pê-đa-xu.

60 Ngày thứ chín, A-bi-đan con trai Ghi-đê-ô-ni, người lãnh đạo chi tộc Bên-gia-min, mang các lễ vật của mình đến dâng. 61 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 62 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 63 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 64 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 65 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của A-bi-đan con trai Ghi-đê-ô-ni.

66 Ngày thứ mười, A-hi-ê-xe con trai Am-mi-sa-đai, người lãnh đạo chi tộc Ðan, mang các lễ vật của mình đến dâng. 67 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 68 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 69 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 70 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 71 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của A-hi-ê-xe con trai Am-mi-sa-đai.

72 Ngày thứ mười một, Pa-ghi-ên con trai Ốc-ran, người lãnh đạo chi tộc A-se, mang các lễ vật của mình đến dâng. 73 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 74 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 75 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 76 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 77 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Pa-ghi-ên con trai Ốc-ran.

78 Ngày thứ mười hai, A-hi-ra con trai Ê-nan, người lãnh đạo chi tộc Náp-ta-li, mang các lễ vật của mình đến dâng. 79 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 80 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 81 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 82 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 83 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của A-hi-ra con trai Ê-nan.

84 Ðó là các lễ vật do những người lãnh đạo dân I-sơ-ra-ên đã dâng hiến cho bàn thờ, khi bàn thờ được xức dầu biệt riêng ra thánh: mười hai dĩa bằng bạc, mười hai bát bằng bạc, mười hai dĩa bằng vàng; 85 mỗi dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, mỗi bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram; tất cả khí dụng bằng bạc cân nặng khoảng hai mươi tám ký,[e] theo đơn vị đo lường của nơi thánh; 86 mười hai dĩa bằng vàng, chứa đầy hương thơm, mỗi dĩa cân nặng một trăm mười gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh; tất cả dĩa bằng vàng cân nặng khoảng một ký bốn trăm gờ-ram;[f] 87 tất cả thú vật để làm của lễ thiêu là mười hai bò đực tơ, mười hai chiên đực, mười hai chiên đực một tuổi, cùng với các lễ vật dâng làm của lễ chay; mười hai dê đực dùng làm của lễ chuộc tội; 88 còn các thú vật dâng làm của lễ cầu an thì có hai mươi bốn bò đực, sáu mươi chiên đực, sáu mươi dê đực, và sáu mươi chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật đã được dâng cho sự cung hiến bàn thờ, khi bàn thờ được xức dầu biệt riêng ra thánh.

89 Mỗi khi Môi-se vào trong Lều Hội Kiến hầu chuyện với Chúa,[g] ông nghe tiếng từ trên Nắp Thi Ân, ở trên Rương Giao Ước, giữa hai chê-ru-bim, nói với ông. Ông hầu chuyện với Ngài qua cách đó.

Thánh Thi 42-43

TẬP THỨ HAI

(Bài 42-72)

Lòng Khao Khát Chúa trong Cảnh Hoạn Nạn và Lưu Ðày

Cho Trưởng Ban Nhạc

Giáo huấn ca của con cháu Cô-ra

Ðức Chúa Trời ôi, như con nai thèm khát khe nước thể nào,
Linh hồn con cũng khát khao Ngài thể ấy.

Linh hồn tôi khát khao Ðức Chúa Trời, tức Ðức Chúa Trời hằng sống;
Khi nào tôi mới được đến để ra mắt Ðức Chúa Trời đây?
Suốt ngày họ cứ hỏi tôi, “Ðức Chúa Trời của mi đâu rồi?”
Nước mắt đã làm thực phẩm cho tôi cả ngày lẫn đêm.

Mỗi khi tôi nhớ lại những kỷ niệm phước hạnh ngày xưa,
Lòng tôi dâng lên nỗi buồn vô hạn.
Nhớ trước kia tôi đi theo một đoàn người đông đúc,
Cùng họ tiến về nhà Ðức Chúa Trời,
Cùng cất tiếng reo mừng và dâng những lời cảm tạ,
Một đoàn người vui mừng về thờ phượng trong ngày đại lễ.

Hỡi linh hồn ta, cớ sao ngươi buồn bã?
Vì sao ngươi than thở trong ta?
Hãy tin cậy Ðức Chúa Trời, vì ta sẽ còn ca ngợi Ngài,
Đấng Giải Cứu của ta và Ðức Chúa Trời của ta.[a]

Ðức Chúa Trời của con ôi, linh hồn con buồn bã trong con;
Từ xứ Giô-đanh, từ các đỉnh Hẹt-môn, từ Ðồi Mi-xa, con nhớ đến Ngài.
Vực gọi vực theo tiếng ầm ầm các thác nước của Ngài;
Những lượn sóng lớn và nhỏ của Ngài đã vùi dập con.

Ban ngày Chúa ban lịnh cho tình thương Ngài ở với tôi;
Còn ban đêm bài ca của Ngài ở với tôi.
Ðó là bài cầu nguyện dâng lên Ðức Chúa Trời của đời sống tôi.

Tôi đã thưa với Ðức Chúa Trời, vầng đá của tôi,
“Sao Ngài đã quên con?
Sao con cứ phải than khóc vì bị kẻ thù của con áp bức mãi thếnày?
10 Con đau đớn như bị gươm đâm thấu xương mỗi khi con bị kẻ thù sỉ nhục;
Suốt ngày chúng cứ hỏi con, ‘Ðức Chúa Trời của mi đâu rồi?’”

11 Hỡi linh hồn ta, cớ sao ngươi buồn bã?
Vì sao ngươi than thở trong ta?
Hãy tin cậy Ðức Chúa Trời, vì ta sẽ còn ca ngợi Ngài,
Ðấng Giải Cứu của ta và Ðức Chúa Trời của ta.[b]

Cầu Xin Chúa Giải Cứu

Ðức Chúa Trời ôi, xin minh oan cho con và binh vực duyên cớ con trước một dân vô đạo;
Xin giải cứu con khỏi kẻ gian dối và bất công,
Vì Ðức Chúa Trời ôi, Ngài là sức mạnh của con.
Sao Ngài nỡ lìa bỏ con?
Sao con cứ phải than khóc vì bị kẻ thù áp bức mãi thếnày?

Ôi, xin ban ánh sáng và chân lý của Ngài để dẫn dắt con;
Nguyện chúng dẫn đưa con đến núi thánh của Ngài,
Và đến đền thờ[c] Ngài,
Ðể con sẽ đến bàn thờ của Ðức Chúa Trời,
Ðến với Ðức Chúa Trời, niềm vui khôn tả của con,
Ðể con hòa theo tiếng đàn[d] mà ca ngợi Ngài,
Lạy Ðức Chúa Trời, Thần[e] của con.

Hỡi linh hồn ta, cớ sao ngươi buồn bã?
Vì sao ngươi than thở trong ta?
Hãy tin cậy Ðức Chúa Trời, vì ta còn phải ca ngợi Ngài,
Ðấng Giải Cứu của ta và Ðức Chúa Trời của ta.[f]

Nhã Ca 5

Chàng

Anh đã vào trong vườn của anh rồi, hỡi em gái của anh, hôn thê của anh.
Anh đã hưởng mùi mộc dược và hương thơm,
Anh đã ăn tàng ong và uống mật,
Anh đã uống rượu và uống sữa của anh.

Các Thiếu Nữ

Hỡi các bạn, xin hãy ăn và hãy uống;
Hãy uống cho say, hỡi những kẻ đang yêu!

Một Giấc Mộng Yêu Ðương Khác

Nàng

Tôi ngủ nhưng tim tôi thức.
Hãy lắng nghe! Phải chăng người yêu của tôi đang gõ cửa,
“Hãy mở cửa cho anh vào, hỡi em gái của anh, em yêu của anh, bồ câu của anh, người đẹp toàn bích của anh.
Ðầu anh đã đẫm ướt hơi sương,
Tóc anh đã thấm giọt sương đêm.”
Tôi đã cởi áo ngoài và đã thay đồ ngủ,
Lẽ nào bây giờ tôi thay đồ trở lại sao?
Tôi đã rửa sạch chân rồi,
Lẽ nào tôi để cho chân bị bẩn lại sao?
Người yêu của tôi thò tay vào lỗ cài then của cánh cửa;
Lòng tôi cảm động và thương chàng biết bao.
Tôi trỗi dậy mở cửa cho người yêu của tôi;
Mộc dược từ bàn tay tôi nhỏ giọt,
Mộc dược từ các ngón tay tôi làm đẫm ướt then cài.
Tôi mở cửa cho người yêu của tôi,
Nhưng người yêu của tôi đã bỏ đi rồi,
Chàng đã đi mất rồi.
Khi nghe tiếng chàng nói, lúc ấy tôi như kẻ mất hồn.
Bây giờ tôi đi tìm chàng, nhưng tìm hoài không gặp;
Tôi cất tiếng gọi chàng, nhưng chẳng nghe chàng đáp lời.
Bọn lính tuần tiễu trong thành đã gặp tôi;
Chúng đánh đập tôi, chúng gây thương tích cho tôi,
Chúng tước đoạt áo choàng của tôi;
Chính là bọn lính canh gác tường thành đó.

Hỡi các thiếu nữ ở Giê-ru-sa-lem, tôi nài xin các chị:
Nếu các chị gặp người yêu của tôi,
Xin các chị nói giùm với chàng, “Tôi đang bị bịnh tương tư vì chàng.”

Chuyện Trò giữa Các Bạn của Cô Dâu và Cô Dâu

Các Thiếu Nữ

Người yêu của chị có gì hơn những chàng trai khác, hỡi hoa khôi của phái nữ?
Người yêu của chị có gì hơn những chàng trai khác, mà chị yêu cầu chúng tôi như vậy?

Nàng

10 Người yêu của tôi rực rỡ và hồng hào,
Nổi bật giữa muôn người.
11 Ðầu chàng như khối vàng ròng,
Các lọn tóc chàng quăn và đen huyền như lông ô thước.
12 Ðôi mắt chàng như cặp bồ câu đậu bên dòng nước,
Long lanh như được rửa trong sữa và nằm vừa vặn giữa đôi mi.
13 Ðôi má chàng tựa như hai đám hoa, tỏa ngát hương thơm.
Ðôi môi chàng như hoa huệ, nhỏ ròng mộc dược.
14 Ðôi tay chàng là hai thanh vàng khảm đầy lục ngọc.
Thân hình chàng như một khối ngà voi bóng láng, nạm đầy lam ngọc.
15 Ðôi chân chàng là hai trụ cẩm thạch đặt trên hai đế vàng ròng.
Tướng mạo chàng trông tựa Núi Li-băng,
Uy hùng như những cây bá hương.

16 Miệng chàng thật êm ái ngọt ngon;
Toàn thân hình chàng thật đáng yêu hết mực.
Người yêu của tôi, bạn trai của tôi, là vậy đó.
Hỡi các nàng thiếu nữ ở Giê-ru-sa-lem.

Hê-bơ-rơ 5

Mỗi vị thượng tế đều được chọn giữa vòng loài người và được lập lên để thay mặt loài người làm những việc liên quan đến Ðức Chúa Trời, hầu dâng các lễ vật và các thú vật hiến tế chuộc tội. Vị thượng tế ấy có thể cảm thông với những người thiếu hiểu biết và lầm lạc, vì chính ông cũng bị những yếu đuối vây quanh. Do đó khi dâng các thú vật hiến tế để chuộc tội cho dân, ông cũng phải dâng các thú vật hiến tế để chuộc tội cho chính mình.

Không ai được tự ý lấy vinh dự ấy cho mình, nhưng phải được Ðức Chúa Trời kêu gọi, giống như A-rôn ngày xưa. Cũng vậy Ðấng Christ đã không tự tôn mình lên làm Thượng Tế, nhưng là Ðấng đã nói với Ngài,

“Con là Con Ta,
Ngày nay Ta đã sinh Con,”Thi 2:7

làm điều đó, giống như Ðấng ấy cũng đã phán trong một chỗ khác,

“Con làm tư tế đời đời,
Theo dòng Mên-chi-xê-đéc.”Thi 110:4

Khi còn trong xác thịt, Ngài đã đổ nước mắt và khóc thành tiếng, dâng lời cầu nguyện và nài xin lên Ðấng có quyền cứu Ngài khỏi chết, và lời cầu xin của Ngài đã được nhậm vì Ngài đã kính cẩn vâng lời. Dù Ngài là Con, Ngài đã học vâng lời bằng những điều Ngài chịu đau đớn, và sau khi được làm cho trọn vẹn, Ngài đã trở thành nguồn cứu rỗi đời đời cho tất cả những ai vâng lời Ngài, 10 Ðấng được Ðức Chúa Trời chỉ định làm Thượng Tế theo dòng Mên-chi-xê-đéc.

Trách Người Chậm Lớn Thuộc Linh

11 Về vấn đề này chúng tôi còn nhiều điều phải nói, nhưng khó giải thích, bởi vì anh chị em đã trở nên chậm hiểu. 12 Vì đến nay đáng lý ra anh chị em đã là bậc thầy rồi, nhưng anh chị em vẫn cần người khác dạy cho những điều sơ đẳng về sấm ngôn của Ðức Chúa Trời. Anh chị em vẫn cần uống sữa thay vì ăn thức ăn đặc. 13 Ai chỉ có thể sống bằng sữa thì chưa đủ bản lĩnh để học Ðạo[a] công chính, vì người ấy vẫn còn thơ ấu. 14 Nhưng thức ăn đặc dành cho những người trưởng thành, tức cho những người nhờ thực hành đã luyện được khả năng phân biệt điều tốt và điều xấu.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang